Mẹo về Năm 1960 có 17 nước ở châu Phi giành độc lập là đó ảnh hưởng của sự việc kiện nào ở Việt Nam 2022
Cao Thị Xuân Dung đang tìm kiếm từ khóa Năm 1960 có 17 nước ở châu Phi giành độc lập là đó ảnh hưởng của sự việc kiện nào ở Việt Nam được Cập Nhật vào lúc : 2022-03-31 16:58:05 . Với phương châm chia sẻ Thủ Thuật Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết Mới Nhất. Nếu sau khi đọc nội dung bài viết vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.Trả lời câu 1 trang 38 sgk lịch sử lớp 12
Câu hỏi
Nội dung chính- Trả lời câu 1 trang 38 sgk lịch sử lớp 12Đáp án tham khảoBổ sung kiến thức và kỹ năng Nêu những mốc chính trong quá trình phát triển từ ASEAN 5 thành ASEAN 10? Trình bày những nét chính về cuộc cách mạng Cu Ba (1953 - 1959)? Đánh giá vai trò cách mạng của Phi-đen Cát-xtơ-rô đối với cách mạng Cu -Ba? Theo em, việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã tạo ra thời cơ và thách thức gì?
Tại sao năm 1960 được gọi là “Năm châu Phi”?
Hướng dẫn trả lời
Dựa vào sự kiện trong sgk Lịch sử 12 trang 37 để suy luận ra đáp án.
Đáp án tham khảo
Năm 1960 được gọi là “Năm Châu Phi” vì có 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập: Đông Camorun (1-1-1960), Togo (27-4-1960), Madagaxca (26-6-1960), Xomali (1-7-1960), Đahômây (1-8-1960), Nigie (3-8-1960)…
Bổ sung kiến thức và kỹ năng
Đọc tài liệu tổng hợp một số trong những thắc mắc liên quan tới cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập của nhân dân châu Phi để những em học viên tiếp cận đa dạng nhiều dạng thắc mắc, từ đó có ứng biến thích phù phù hợp với nội dung kiến thức và kỹ năng.
Tên 17 nước châu Phi giành độc lập năm 1960
Trả lời:
- 1 tháng 1, Cameroon tuyên bố độc lập từ Pháp.
- 27 tháng 4: Togo giành độc lập từ Anh quốc.
- 20 tháng 6: Sénégal giành độc lập.
- 26 tháng 6: Madagaxca giành độc lập.
- 30 tháng 6: Congo-Kinshasa tuyên bố độc lập.
- 1 tháng 7: Xomali giành độc lập.
- 1 tháng 8: Cộng hòa Dahomey tuyên bố độc lập.
- 3 tháng 8: Niger tuyên bố độc lập.
- 5 tháng 8: Thượng Volta tuyên bố độc lập, thành lập nước cộng hòa.
- 7 tháng 8: Côte d'Ivoire (tức Bờ Biển Ngà) tuyên bố độc lập.
- 11 tháng 8: Tchad tuyên bố độc lập.
- 13 tháng 8: Cộng hòa Trung Phi tuyên bố độc lập.
- 15 tháng 8: Congo-Brazzaville tuyên bố độc lập, thành lập nước Cộng hòa Congo.
- 17 tháng 8: Gabon tuyên bố độc lập.
- 22 tháng 9: Soudan thuộc Pháp tuyên bố độc lập, thành lập nước Cộng hòa Mali.
- 1 tháng 10: Nigeria giành độc lập từ Anh, thành lập nước Cộng hòa liên bang Nigeria
- 28 tháng 11: Mauritanie tuyên bố độc lập.
Châu Phi được ví là “Lục địa mới trỗi dậy” vì:
A. Sau trận chiến tranh thế giới thứ hai, cơn lốc táp cách mạng giải phóng dân tộc bản địa bùng nổ ở Châu Phi với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
B. Là lá cờ đầu trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và Mĩ.
C. Sau trận chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc bản địa phát triển mạnh mẽ và tự tin và hầu hết những nước đã giành được độc lập.
D. Phong trào giải phóng dân tộc bản địa ở đây đã làm rung chuyển khối mạng lưới hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.
Đáp án: A
Sau khi giành được độc lập những nước châu phi còn gặp những trở ngại vất vả gì?
Trả lời:
- Sau khi giành độc lập, những nước châu Phi bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, nhưng chưa thay đổi được tình trạng đói nghèo, lỗi thời.
- Từ cuối trong năm 80, tình hình châu Phi ngày càng trở ngại vất vả và tạm bợ như:
+ Xung đột, nội chiến, đói nghèo, nợ nần và bệnh tật (từ năm 1987 đến năm 1997 có tới 14 cuộc xung đột và nội chiến ở Run-an-đa có tới 800 nghìn người chết và 1,2 triệu người phải thong thả, chiếm 1/10 dân số).
+ Hiện nay châu Phi có 57 quốc gia, nhưng 32 nước xếp vào nhóm nghèo nhất thế giới, 2/3 dân số châu Phi không đủ ăn, 1/4 dân số đói kinh niên (150 triệu người).
+ Tỉ lệ tăng dân số cao nhất thế giới.
+ Tỉ lệ người mù chữ cao nhất thế giới.
+ Đầu thập kỉ 90, châu Phi nợ chồng chất: 300 tỉ USD.
Năm 1960, phong trào giải phóng dân tộc bản địa ở châu Phi giành được thắng lợi nào sau đây?
A. 17 nước ở châu Phi được trao trả độc lập.
B. Tất cả những nước châu Phi giành được độc lập.
C. Chế độ phân biệt chủng tộc bị xóa bỏ.
D. Nước Cộng hòa Dimbabuê ra đời.
Đáp án: A
Sự kiện được xem là mốc mở đầu của phong trào đấu tranh giành độc lập ở châu Phi sau Chiến tranh thế giới thứ II ?
A. Cách mạng Libi bùng nổ (1952).
B. Thắng lợi của phong trào cách mạng Angiêri (1962).
C. Cuộc binh biến của sĩ quan, binh lính yêu nước ở Ai Cập (1952).
D. Thắng lợi của phong trào cách mạng ở Tuynidi (1956).
Đáp án: C
***
Trên đây là phần hướng dẫn trả lời thắc mắc thảo luận 1 trang 38 SGK Lịch sử lớp 12, nội dung chính: Tại sao năm 1960 được gọi là “Năm châu Phi”?
Tiếp theo: Câu hỏi thảo luận 2 trang 38 SGK Lịch sử 12
03/11/2022 90
Câu hỏi Đáp án và lời giải Ôn tập lý thuyết
Đáp án và lời giải
đáp án đúng: B
Năm 1960 được gọi là năm Châu Phi vì 17 nước Châu Phi đều giành được độc lập : Đông Camorun (1-1-1960), Togo (27-4-1960), Ma-da-ga-xca (26-6-1960), Xo-ma-li (1-7-1960), Đa-hô-mây (1-8-1960), Nigie (3-8-1960)…
Câu hỏi liên quan
Giải bài tập thắc mắc lí thuyết số 1 trang 38 SGK Lịch sử 12
Tại sao năm 1960 được gọi là “Năm châu Phi”?
Phương pháp giải - Xem rõ ràng
Dựa vào sự kiện trong sgk Lịch sử 12 trang 37 để suy luận ra đáp án.
Năm 1960 được gọi là “Năm Châu Phi” vì có 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập: Đông Camorun (1-1-1960), Togo (27-4-1960), Madagaxca (26-6-1960), Xomali (1-7-1960), Đahômây (1-8-1960), Nigie (3-8-1960)…
Bài Làm:
- Năm 1960 được gọi là “Năm châu Phi” bởi có 17 nước được trao trả độc lập, đánh dấu sự sụp đổ cơ bản của chủ nghĩa thực dân cũ.Tên những nước giành độc lập trong năm 1960 là: Môritani, Xênêgan, Cốt Đivoa, Buốc China Phaxô, Nigiêria, nigiê, Sát, Xômali, CHDC Công gô, Gabông....
Trong: Giải bài 12: Các nước Á, Phi, Mỹ La-tinh từ năm 1945 đến nay
Nêu những mốc chính trong quá trình phát triển từ ASEAN 5 thành ASEAN 10?
Trình bày những nét chính về cuộc cách mạng Cu Ba (1953 - 1959)?
Đánh giá vai trò cách mạng của Phi-đen Cát-xtơ-rô đối với cách mạng Cu -Ba?
Theo em, việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã tạo ra thời cơ và thách thức gì?
5/6/2022 1:39:02 PM
Điện Biên Phủ “một chiếc mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó chỉ rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc bản địa khắp thế giới đang lên rất cao đến thắng lợi hoàn toàn”1. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ không riêng gì có ghi dấu ấn tốt đẹp và chiến công hiển hách trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, mà còn tác động mạnh mẽ và tự tin đến bảo mật thông tin an ninh, chính trị thế giới, trở thành điểm hẹn hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Tầm vóc của thắng lợi Điện Biên Phủ
Thời gian càng lùi xa, ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng Điện Biên Phủ càng được nhận thức đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc hơn. Điện Biên Phủ được xem như “trận Vanmi của những dân tộc bản địa da màu”2. Chiến thắng Điện Biên Phủ tác động mạnh mẽ và tự tin, sâu rộng đối với phong trào giải phóng dân tộc bản địa; cổ vũ, động viên nhân dân những nước thuộc địa và phụ thuộc vùng lên giải phóng và xây dựng quốc gia độc lập, tự do của tớ. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, cụm từ “Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ” không riêng gì có trở thành lời chào mời, mà còn tồn tại ý nghĩa như một “mệnh lệnh” trong cuộc đấu tranh của những dân tộc bản địa bị áp bức, nô dịch. Riêng cụm từ “Điện Biên Phủ” đi vào ngôn từ những dân tộc bản địa, như một động từ “dienbienfuer”, nghĩa là “tấn công”, “quyết chiến đến cùng để giành thắng lợi”. Nó thể hiện một khát vọng chân chính về môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường tươi đẹp, một niềm tin vững chắc mà những dân tộc bản địa phải đấu tranh để giành lấy bằng sức mạnh mẽ và tự tin của chính mình, v.v.
Từ ngày thứ 7/5/1954 đến nay, không riêng gì có nhân dân Việt Nam mà những nhà nghiên cứu và phân tích, tướng lĩnh, những chính trị gia trên thế giới, nhất là ở Pháp và Mỹ đã viết về Điện Biên Phủ - “sự kiện thế kỷ” dưới nhiều hình thức, thể loại: văn học, nghệ thuật và thẩm mỹ, hồi ức, hồi ký,… tập trung nhiều nhất là nghành khoa học quân sự. Các tác phẩm đều đi tìm lời lý giải cho thắng lợi “chấn động địa cầu” này. Tựu chung đều thống nhất nhận định đó là thắng lợi của trí tuệ và tầng sâu văn hóa Việt Nam; của khối đại đoàn kết toàn dân tộc bản địa đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ không riêng gì có là thắng lợi vẻ vang của dân tộc bản địa Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc bản địa, mà còn là một chiến công vĩ đại của quả đât trong thế kỷ XX.
Vậy mà, lúc bấy giờ, xuất hiện một số trong những ý kiến rất khác nhau, thậm chí trái ngược về Chiến thắng lịch sử này. Song, dù nhận định thế nào đi nữa, cũng chưa tồn tại một tướng lĩnh, chính khách, nhà nghiên cứu và phân tích lịch sử phương Tây nào phủ nhận ý nghĩa Chiến thắng Điện Biên Phủ như “một thất bại hoàn toàn... một sự thất thủ... và phải gọi đúng tên nó: một sự đầu hàng”3 của thực dân Pháp. Hơn thế nữa, Bécna Phôn xác định rằng, trong lịch sử Pháp, “Điện Biên Phủ là em của hai trận: Xơđăng 1870 và Xơđăng 1940” mà Pháp thua Đức.
Tác động của “tiếng sấm Điện Biên Phủ”
“Đúng 22 giờ ngày thứ 7/5, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại đã thu được toàn thắng”4. Một “không khí im re não nề” của Quốc hội Pháp khi nghe đến tin Điện Biên Phủ thất thủ lúc 13 giờ 42 phút ngày thứ 8/5/1954 - “không khí của hội trường rộng rãi âm vang thông báo tình hình... người ta nghe tiếng nói của ông như tiếng nức nở của một thiếu phụ ở chốn xa xăm nào đó”5. Và ngày 11/5/1954, Hội đồng Chính phủ Pháp đã họp một phiên bi thảm nhất của nước Pháp, Tính từ lúc tháng 5/1940.
Trong hồi ký “Tấn thảm kịch Đông Dương...”6 sau này, Lanien thừa nhận rằng: “Thất bại cực kỳ to lớn ở Đông Dương đã làm cho Chính phủ Pháp lo ngại, đa phần do những tác động vang dội của nó ở Paris... nó giáng một đòn tinh thần rất nặng vào dư luận quần chúng, cũng như một vài giới quân sự...”7. Trong quyển “Đông Dương hấp hối 1953 - 1954”, Hăngri Nava cay đắng thừa nhận sự thất thủ của tập đoàn cứ điểm (Điện Biên Phủ) đã gây ra một sự choáng váng sâu sắc không còn lợi cho tất cả chúng ta”, v.v. Ký giả Pháp, Giulét Rôi, trong cuốn “Trận Điện Biên Phủ” nhận định rằng: “Điện Biên Phủ thất thủ gây ra một sự kinh hoàng ghê gớm. Đó là một trong những thất bại của phương Tây, báo hiệu sự tan rã của những thuộc địa và sự cáo chung của nền cộng hòa. Tiếng sấm của sự việc kiện vẫn còn âm vang”.
Tiếng sấm Điện Biên Phủ cũng làm rung động White House. Báo Paris Match viết: “Tin Điện Biên Phủ hấp hối đến với Mỹ trong ngày thứ Sáu. Sáng và chiều, Chính phủ, báo chí, dư luận tự hỏi một khi Điện Biên Phủ thất thủ, chuyện gì sẽ xảy ra... Đằng sau sự sụp đổ của Điện Biên Phủ có những Dự kiến tối tăm và những giả thuyết còn khiến người ta nản lòng hơn là những sự thật phũ phàng nhất”. Chính phủ Mỹ cũng lo ngại khi “Điện Biên Phủ thất thủ, việc đầu tiên của Tổng thống Aixenhao là triệu tập ngay Hội đồng An ninh quốc gia vào ngày hôm sau, thứ Bảy, hồi 08 giờ 30. Cuộc triệu tập này vi phạm cả tính chất thiêng liêng của việc nghỉ thời điểm vào buổi tối cuối tuần”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ, như W.Phoxtơ, Chủ tịch Đảng Cộng sản Mỹ chỉ rõ “đã lộ rõ sự phá sản chủ trương của phố Uôn hòng chinh phục những nước ở Đông Nam Á”. Hơn thế nữa, hãng tin Pháp AFP ngày thứ 7/5/1984, nhận định rằng nó “đã thúc đẩy và làm tăng cường sự phản kháng những chủ trương khống chế tàn bạo của Mỹ ở những nước tư bản khác”; đồng thời xác định, Chiến thắng Điện Biên Phủ đã “thổi bùng phong trào độc lập tại nhiều quốc gia thuộc địa trên khắp thế giới”. Chưa hết, còn xâm lược, những đế quốc còn nếm đòn Điện Biên Phủ, đúng như Đavít Hêbơstơm viết: “Điện Biên Phủ không phải là sự việc nguy hiểm của số mệnh. Nó là một phán xét”8. Nhấn mạnh về ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), tờ Guardian (Anh) năm 2014 nhận định rằng, Chiến thắng Điện Biên Phủ không riêng gì có đơn thuần là hình tượng thất bại của Pháp, hình tượng thắng lợi của Việt Nam, mà còn là một “dấu mốc mở ra thuở nào đại mới trên toàn thế giới - thời đại giải phóng dân tộc bản địa”. Sử gia Anh Martin Windrow nhận định rằng, “lần đầu tiên một phong trào độc lập ngoài châu Âu phát triển từ lực lượng du kích đã đánh bại một quốc gia xâm lược châu Âu trong một trận chiến”. Báo Hong Kong Bưu điện Hoa Nam buổi sáng (SCMP) xác định: Điện Biên Phủ là hình tượng của tinh thần quyết tâm tự lực, tự cường, chiến đấu và thắng lợi của dân tộc bản địa Việt Nam. Nhà nghiên cứu và phân tích Anh, Peter Hunt thuộc Đại học King’s College London nhận định: “Điện Biên Phủ đã làm thay đổi cả châu Á và ảnh hưởng của nó còn kéo dãn tới ngày này”9. Năm 1960 được đánh dấu là “Năm Châu Phi” khi 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập dưới nhiều hình thức và mức độ rất khác nhau. Như một phản ứng dây chuyền sản xuất phủ rộng rộng rãi ra khắp thế giới, Algêrie và một loạt những nước thuộc địa của Pháp ở châu Phi, như: Maroc, Tunisia, Guinea (Ghinê), Mali, Madagascar, Cameroom,... đã nổi dậy một cách mạnh mẽ và tự tin, ào ạt và nhanh gọn, buộc thực dân Pháp không hề con phố nào khác là phải trao trả nền độc lập cho những nước này.
Điện Biên Phủ còn tái diễn trong lịch sử cuộc trận chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ. Năm 1968, từ tháng 01 đến tháng 7, quân Giải phóng miền Nam Việt Nam liên tục tiến công quân Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn ở cứ điểm Khe Sanh (Quảng Trị), qua nhiều đợt tiến công tiêu diệt chi khu quân sự Hướng Hóa, cứ điểm Làng Vây, Tà Cơn, đánh bại cuộc hành quân giải vây “ngựa bay”, siết chặt vòng vây, đánh lấn. Cuối cùng, quân viễn chinh Mỹ phải bỏ ý đồ “bảo vệ Khe Sanh bằng mọi thủ đoạn”, vì “không chịu đựng một Điện Biên Phủ”, nên phải tháo chạy. Đó là sự việc thất bại nặng nề về chính trị đối với Mỹ theo kiểu “Pháp bại trận Điện Biên Phủ”, và Giônxơn đã “ném danh dự nước Mỹ ra để bắt Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân ký kết bằng máu” để giữ Khe Sanh (theo nhà sử học Mỹ Sêthơ Sêtsing). Năm 1972, trong 12 ngày đêm ngoan cố, dã man đánh phá Thủ đô Tp Hà Nội Thủ Đô, Mỹ lại nếm đòn “Điện Biên Phủ trên không” (81 máy bay bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc “siêu pháo đài bay” B-52; 5 chiếc F-111 “cánh cụp cánh xòe”. Những điều này xác nhận Dự kiến việc Mỹ “ủng hộ những chính sách độc tài quân phiệt... chắc như đinh sẽ đưa đến một Điện Biên Phủ”10.
Điện Biên Phủ - hình tượng khát vọng độc lập, tự do của dân tộc bản địa Việt Nam, điểm hẹn hòa bình, hữu nghị và hợp tác của quả đât
Tờ Tin tức, số ra ngày 11/5/1954 ở Inđônêxia nhận thấy rằng, việc giải phóng Điện Biên Phủ không riêng gì có là thắng lợi của Việt Nam mà còn “chứng tỏ nhân dân châu Á có đủ kĩ năng kết thúc lịch sử của bọn thực dân âm mưu dùng lực lượng vũ trang để thực hiện tham vọng của tớ”.
Trong chiến đấu chống Pháp, mọi khi xung phong, những chiến sỹ Angrêri thét lớn “Điện Biên Phủ” thay cho “Anma” (nghĩa là “xung phong”, “tiến lên”). Đúng như Môhamét Banđana, nhà điện ảnh Angiêri đã nói: “mọi khi đánh giáp lá cà, ba tiếng “Điện Biên Phủ” tăng thêm sức mạnh cho đường lê; khi lao mình dưới làn mưa đạn, ba tiếng “Điện Biên Phủ” đã khuyến khích chiến sỹ chúng tôi đánh đến cùng, chiếm bằng được từng tấc đất trên trận địa quân thù”. Còn tờ Sao đỏ (Liên Xô), ngày thứ 8/5/1954 viết: “Việc giải phóng cứ điểm (Điện Biên Phủ) chứng tỏ lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam, ý chí không gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam nhất quyết bảo vệ nền tự do, độc lập của tớ” và cũng như những đồng chí Cuba xác định: “Là một niềm kỳ vọng to lớn và tươi sáng, sự cổ vũ những dân tộc bản địa chiến đấu. Thắng lợi của Việt Nam chứng tỏ rằng: Bất kỳ một dân tộc bản địa nếu đoàn kết, nhất quyết đấu tranh cho tự do và tương lai tươi sáng để hoàn toàn có thể đánh bại được đế quốc”. Trong tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt Việt – Lào, Hoàng thân Xuphanuvông, Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Pathét Lào, trong điện mừng ngày thứ 8/5/1954 đã chân thành cảm ơn nhân dân Việt Nam với Chiến thắng Điện Biên Phủ “ngoài trách nhiệm giải phóng đất nước mình, những bạn cũng đương làm trách nhiệm giúp sức đẩy mạnh cuộc kháng chiến của Pathét Lào”, v.v.
Nhận thức ý nghĩa của Chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân những nước thuộc địa và phụ thuộc luôn ghi nhớ rằng: “ba tiếng Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ” từ nay gắn sát nhau thành một sự thật vĩ đại, chói lọi, như một niềm kỳ vọng to lớn và tươi sáng” (Hecto Rôđrighết Lompác, Thứ trưởng Ngoại giao Cuba). Nhiều đường phố, quảng trường, trường học,… trên thế giới được mang tên “Hồ Chí Minh” và “Điện Biên Phủ”. Ngày đầu Tiên/6/1956, trận thắng lợi của quân Giải phóng Angiêri (diệt 400 quân Pháp, làm hàng trăm tên bị thương, bắn rơi 08 máy bay) được gọi là “Điện Biên Phủ thứ Nhất”. Thậm chí vào thời điểm giữa tháng 5/1954, món ăn ngon nhất trong những tiệm ăn ở nhiều thành phố của Angiêri cũng mang tên “món Điện Biên Phủ”.
Nhân dân những nước thuộc địa ý thức rõ rằng, Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, như Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh xác định: “… muốn được giải phóng, những dân tộc bản địa chỉ hoàn toàn có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của tớ mình mình”11. Sự giúp sức của bạn bè là thiết yếu, song quyết định vẫn là sức mạnh dân tộc bản địa. Đúng như Thiếu tướng Kiangiap Mienme nói: “Đây là bài học kinh nghiệm tay nghề quý báu nhất của Điện Biên Phủ”. Năm 1993, F. Mitterrand, Tổng thống Pháp đầu tiên đến Việt Nam và tuyên bố: “Tôi ở đây để đóng lại một trang sử và cũng để mở ra một trang khác”12. Georges Saunier đánh giá chuyến thăm Điện Biên Phủ của F. Mitterrand là một hành vi dũng cảm: “Điện Biên Phủ là một điểm lịch sử ngoại lệ. Một điểm nợ chết chóc, thất bại mà cũng là vấn đề quay lại và tĩnh tâm. Các dấu vết khổ đau ở đây rất nhiều. Nó cũng là hình tượng của một thất bại nào đó của thực dân và việc thiếu tin tưởng của người Pháp,... Chuyến đi cũng là để “hòa giải hoàn toàn giữa dân tộc bản địa Pháp và Việt Nam”. Tổng thống F. Mitterrand khi trả lời thắc mắc của báo chí về tinh thần đến thăm Điện Biên Phủ, tên gọi gợi trang bi thảm của lịch sử Pháp như sau: “Tôi hoàn toàn có thể đến Điện Biên Phủ để suy nghĩ lại, để cảm nhận lại tất cả những gì mà một người Pháp hoàn toàn có thể cảm thấy trước sự quyết tử của binh lính để tất nhiên không quên những người dân khác”13. Trong bài phát biểu tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Ông nói: “Chúng ta đã sống xa nhau và giờ đây tất cả chúng ta lại hội ngộ nhau”14.
Cho đến ngày hôm nay và mãi mãi sau này, nhân dân thế giới vẫn ghi nhớ “Điện Biên Phủ can đảm và mạnh mẽ và tự tin, vinh quang đời đời sáng mãi”, nó sẽ “không bao giờ phai trong ký ức của mọi người”15. Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử Việt Nam và thế giới với những ý nghĩa rất khác nhau. Từ góc nhìn quốc tế, Điện Biên Phủ là hình tượng của lòng quả cảm của một dân tộc bản địa, nguồn cảm hứng bất tận cho khát vọng độc lập, tự do, chính nghĩa của những dân tộc bản địa bị đô hộ, áp bức, bóc lột. Chiến thắng này là sự việc mở đầu cho việc chấm hết hoàn toàn chính sách thực dân kiểu cũ, nhưng cũng báo hiệu sự thất bại của tất cả chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Sự can thiệp của đế quốc Mỹ và những nước đồng minh trong cuộc trận chiến tranh Việt Nam sau đó cũng cùng chung số phận mà Điện Biên Phủ đã là hồi chuông chú ý.
Sáu mươi bảy năm đi qua, thế giới nói chung, Việt Nam và Pháp nói riêng đã vĩnh viễn “gác lại quá khứ” để đến ngày hôm nay, Điện Biên Phủ từ “điểm hẹn trong trận chiến tranh” trở thành “điểm hẹn của hòa bình, hữu nghị và hợp tác”.
PGS, TS. VŨ QUANG VINH, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
________________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 315.
2 - Philippe Moreau Defarges - Les relations Internationales dans le monde d’aujourd’hui, Ed STH, Paris, 1992, Pg. 85; Báo Paris Match, ngày thứ 8/5/1954.
3 - Báo Observateur 13/5/1954.
4 - Bộ Tổng tham mưu - Thông báo đặc biệt, ngày thứ 8/5/1954, Những tài liệu chỉ huy những chiến dịch, 1963, T.6, tr. 243
5 - Báo Paris Match ngày thứ 8/5/1954.
6 - “Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử”, Nxb QĐND, H. 1994, tr. 130.
7 - Trường Đại học sư phạm Tp Hà Nội Thủ Đô - Chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb Đại học sư phạm, H. 2004, tr. 281.
8 - Sđd, tr. 281.
9 - Tạp chí Lịch sử Đảng, Số (342) 5/2022, tr. 04.
10 - Báo Nhân dân Tây Đức, ngày 27/3/1964.
11 - Trần Dân Tiên - Những mẩu chuyện về đời hoạt động và sinh hoạt giải trí của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, H. 1975, tr. 33.
12 - Georges Saunier - “Francois Mitterrand với châu Á, Tham luận tại Hội thảo “Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại” tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp Hà Nội Thủ Đô, 2004, tr. 01.
13 - Sđd, tr. 27.
14 - Sđd, tr. 32.
15 - “Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử”, Nxb QĐND, H. 1994, tr. 129-135.
[embed]https://www.youtube.com/watch?v=I_FeAx3cB-A[/embed]