Mẹo về Thời gian sẽ luôn công minh ngày sau chứng tỏ Mới Nhất
Bùi An Phú đang tìm kiếm từ khóa Thời gian sẽ luôn công minh ngày sau chứng tỏ được Cập Nhật vào lúc : 2022-04-29 01:24:51 . Với phương châm chia sẻ Mẹo về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi tham khảo Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Ad lý giải và hướng dẫn lại nha.
Chuyên đề: Học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân,
đời tư trong sáng, môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường riêng giản dị
I. TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ, LÀM NGƯỜI CÔNG BỘC TẬN TỤY, TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN, ĐỜI TƯ TRONG SÁNG, CUỘC SỐNG RIÊNG GIẢN DỊ
1. Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Hồ Chí Minh xác định: Đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền chắc mới thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền chắc hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Người quan niệm: đã là người thì ai cũng luôn có thể có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng luôn có thể có thiện, có ác trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, điều thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, điều ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện thường xuyên trong mọi hoạt động và sinh hoạt giải trí thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt hiệp hội, trong mọi quan hệ của tớ.
Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc bản địa, một Đảng và mỗi con người, ngày ngày hôm qua là vĩ đại, có sức mê hoặc lớn, không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi tình nhân mến và ca tụng, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa thành viên”.
Chính tấm gương đạo đức trong sáng, suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là sự việc quy tụ đặc sắc nhất những giá trị của đạo đức cách mạng của Người. Đặc biệt, việc Hồ Chí Minh lý giải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư bằng thực tiễn, bằng tấm gương rèn luyện đạo đức cần mẫn hằng ngày của Người, đã củng cố thêm giá trị những phẩm chất này, tạo sức phủ rộng sâu rộng trong đời sống nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, cần nghĩa là cần mẫn, siêng năng, chăm chỉ trong học tập, trong lao động, trong chiến đấu và trong sản xuất; cần còn tồn tại nghĩa là thao tác có phương pháp, có khoa học và có trí tuệ. Cần mà không còn trí tuệ thì đó cũng chỉ là bán thân bất toại.
Kiệm là tiết kiệm thời gian, tiền bạc của cải vật chất và tinh thần cho nhân dân, không tiêu tốn lãng phí, tiêu dùng hợp lý nhằm mục đích mục tiêu mở rộng sản xuất và không ngừng nghỉ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Liêm là liêm khiết, trong sáng, không tham của cải vật chất, không tham địa vị, không tham sung sướng; không nịnh hót kẻ trên và cũng không thích người khác tâng bốc mình.
Chính là luôn đấu tranh để bảo vệ lẽ phải, lên án những cái xấu, cái sai trái.
Chí công vô tư là mình vì mọi người; luôn luôn đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên số 1; khi trở ngại vất vả thì đi trước, thưởng thức sau; không tham tiền tài, địa vị, danh vọng, chỉ có một mục tiêu cao nhất là làm thế nào để môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường của nhân dân no đủ, niềm sung sướng, đất nước phồn vinh.
Chí công là rất mực công minh, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư đối với người, với việc. “Khi làm bất kể việc gì rồi cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi thưởng thức thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn chí công vô tư thì phải thắng lợi được chủ nghĩa thành viên.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ ngặt nghèo với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. trái lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Hồ Chí Minh thực hành triệt để tất cả những quan niệm đạo đức mình đưa ra, thậm chí Người còn làm nhiều hơn nữa, tốt hơn những gì Người nói.
Trong việc làm, Hồ Chí Minh sắp xếp có kế hoạch, giờ nào việc ấy và bằng mọi cách duy trì thời gian biểu đã vạch ra. Người thường xuyên suy nghĩ để đổi mới cách nghĩ, cách làm, tìm tòi những giải pháp tối ưu để việc làm được tiến hành nhanh gọn, đạt hiệu suất cao nhất.
Không chỉ xây dựng kế hoạch thao tác của thành viên, Hồ Chí Minh còn phân công hợp lý việc làm cho mọi người, để ai cũng hoàn toàn có thể làm đúng năng lực, phát huy sở trường, khắc phục sở đoản của tớ. Đặc biệt, trong việc làm và sinh hoạt đời thường, Hồ Chí Minh luôn tôn trọng nhân cách người khác; Người biết nâng cao con người lên, khuyến khích, động viên để con người thấy rõ giá trị đích thực của môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường, có khát vọng sống làm người mãnh liệt và có ý nghĩa. Người tin tưởng ở tính tự giác và tinh thần trách nhiệm của mọi người, nhưng không bao giờ sao nhãng việc kiểm tra, đánh giá việc làm của từng người, khen thưởng, động viên kịp thời những thành viên cần mẫn, sáng tạo trong việc làm.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm, giữ liêm khiết, trong sạch trở thành phong cách riêng của Người ở mọi lúc, mọi nơi. Người sống trung thực, chân thành với chính mình và với người khác.
Hồ Chí Minh là một tấm gương đấu tranh không mệt mỏi chống lại điều ác, cái xấu trong xã hội, trong mỗi con người, chống lại những biểu lộ tiêu cực, nhất là căn bệnh tham ô, tiêu tốn lãng phí, quan liêu trong cỗ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước để những đơn vị đảng, cơ quan nhà nước thật sự trong sạch, đại diện cho nhân dân, Hồ Chí Minh có thái độ rõ ràng, công minh trước công và tội của từng thành viên. Người viết nhiều bài báo giáo dục, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên không được phép làm “quan cách mạng”, phòng tránh những cám dỗ đời thường để không biến thành gục ngã trước những “viên đạn bọc đường”. Người đã trực tiếp chỉ huy xét xử những vụ án lớn; phân tích thấu tình đạt lý những nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm của cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng viên có chức, có quyền. Người chỉ ra hậu quả kinh tế tài chính, chính trị, xã hội, đạo đức mà những hành vi phạm tội gây ra, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào luật pháp, vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và bản chất tốt đẹp của chính sách ta.
2. Suốt đời vì dân, vì nước, làm người công bộc tận tụy trung thành của nhân dân
Sinh ra, lớn lên ở một vùng quê nghèo khổ nhưng giàu truyền thống yêu nước, văn hiến, Hồ Chí Minh được nuôi dưỡng, thấm nhuần sâu sắc triết lý sống của cha ông: Muốn dựng làng và giữ nước phải bắt nguồn từ việc làm người một cách thành thật, đúng nghĩa. Người cũng thể hiện rất sớm một nét tính cách lớn: Sống có lý tưởng trong tâm hồn, trung kiên trong bản chất. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ thuở nhỏ Hồ Chí Minh đã có ý thức gắn vận mệnh thành viên mình với vận mệnh chung của đồng bào, đất nước, luôn đau đáu một nỗi niềm: Hỏi xem non nước mất hay còn! Đấy đó đó là những biểu lộ ban đầu của một nhân cách lớn, một trí thức chân chính: luôn trăn trở, đau đớn trước nỗi nhục mất nước, đồng bào nô lệ, lầm than, suy nghĩ về những vấn đề liên quan đến số phận con người và những giá trị làm người. Bài học đạo đức lớn số 1 mà Hồ Chí Minh để lại cho mọi thế hệ người Việt Nam đó đó là bài học kinh nghiệm tay nghề ở đời và làm người mà nội dung và chiều sâu nhân văn của nó là yêu nước, thương dân, thương quả đât đau khổ bị áp bức, bóc lột.
Gia đình, quê hương, đất nước đã hình thành nên một Hồ Chí Minh mang nhân cách vĩ đại, giàu lòng yêu nước, thương dân, nhất là những người dân nghèo khổ, giúp Người thấu hiểu được sức mạnh mẽ và tự tin của ý chí tự cường, tinh thần tự tôn dân tộc bản địa. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Người xác định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc bản địa, không còn con phố nào khác con phố cách mạng vô sản”.
Yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước là suy nghĩ thường trực, nhất quán trong con người Hồ Chí Minh. Người đi sang Pháp, sang những nước phương Tây nhằm mục đích mục tiêu học hỏi xem bên phía ngoài người ta làm thế nào để rồi về nước giúp đồng bào mình giải phóng khỏi gông cùm nô lệ, áp bức. Và Hồ Chí Minh đấu tranh không ngừng nghỉ, không nghỉ, thậm chí phải quyết tử bằng mọi thủ đoạn giành được độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh phát biểu mục tiêu môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường mà Người theo đuổi là: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm thế nào nước ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng luôn có thể có căm ăn, áo mặc, ai cũng khá được học tập”. Nói chuyện với đồng bào trước khi sang thăm Pháp (30-5-1946), Hồ Chí Minh xác định: “Cả đời tôi chỉ có một mục tiêu, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và niềm sung sướng của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục tiêu đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được cơ quan ban ngành sở tại, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo ngại đêm ngày, nhẫn nhục nỗ lực - cũng vì mục tiêu đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục tiêu, làm cho ích quốc lợi dân”.
Ở Hồ Chí Minh, yêu nước phải gắn sát với yêu dân, yêu đồng bào. Không thể nói yêu nước và lại không thương dân, không lấy nguyện vọng, mong ước, nhu yếu của dân làm nguyện vọng, ham muốn của tớ. Là lãnh tụ dân tộc bản địa, là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ trách nhiệm của thành viên là lo cho dân, cho nước từ việc lớn đến việc nhỏ: từ việc tìm đường cứu nước, bảo vệ, đấu tranh thống nhất đất nước, xây dựng, phát triển mọi mặt xã hội, đến việc tương, cà, mắm, muối... để thỏa mãn những nhu yếu thiết yếu của nhân dân, để mọi người đều có cơm ăn, có áo mặc, có chỗ ở, được học tập, có điều kiện khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.
Trong suốt cuộc sống mình, Hồ Chí Minh luôn day dứt với một suy nghĩ: Người chưa làm tròn trách nhiệm và trách nhiệm cách mạng với dân, với nước. Vì thế, Hồ Chí Minh từ chối mọi thương hiệu, phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước, nhân dân, bạn bè quốc tế dành riêng cho Người. Năm 1963, lúc biết tin Quốc hội định trao tặng Người Huân chương Sao vàng cao quý, Hồ Chí Minh đã phát biểu rất chân thành: “Tôi vừa nhận được một tin tức làm cho tôi rất cảm động và sung sướng. Đó là tin Quốc hội có ý định tặng cho tôi Huân chương Sao vàng, Huân chương cao quý nhất của nước ta. Tôi xin tỏ lòng biết ơn Quốc hội. Nhưng tôi xin Quốc hội được cho phép tôi chưa nhận Huân chương ấy. Vì sao? Vì Huân chương là để tặng thưởng người dân có công huân; nhưng tôi tự xét chưa tồn tại công huân xứng đáng với sự tặng thưởng cao quý của Quốc hội”. Và Người mong ước: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, Bắc – Nam xum họp một nhà, Quốc hội sẽ được cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”.
Hồ Chí Minh dồn hết tâm lực, trí tuệ để lãnh đạo nhân dân xây dựng, phát triển đất nước, làm cho Việt Nam trở nên giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với những cường quốc năm châu. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: “VỀ VIỆC RIÊNG – Suốt đời tôi hết lòng rất là phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không còn điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn thế nữa, nhiều hơn nữa thế nữa”. Và điều mong ước ở đầu cuối của Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp thêm phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Đối với Hồ Chí Minh phạm trù nhân dân là một phạm trù cao quý nhất, là một phạm trù chính trị chủ yếu trong học thuyết cách mạng của Người. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh mẽ và tự tin của nhân dân không riêng gì có đơn thuần là sức mạnh chính trị mà còn là một chiều sâu của tư tưởng nhân văn: “Trong khung trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Đó là một minh chứng điển hình về niềm tin vào sức mạnh mẽ và tự tin của nhân dân. Người xác định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào thì cũng không địch nổi.
Người quan niệm cái gì có lợi cho nhân dân, cho dân tộc bản địa là chân lý, và Người xem phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý; làm công bộc cho dân là một việc làm cao thượng. Vì lẽ đó cuộc sống hoạt động và sinh hoạt giải trí cách mạng của Người là một tấm gương mẫu mực về gần dân, học dân, kính trọng, phục vụ nhân dân. Người nói: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ rằng: quần chúng nhân dân là người làm ra lịch sử, làm ra thành công của cách mạng, là người chủ đất nước; mỗi đảng viên, cán bộ ở bất kể cương vị nào, thao tác làm gì đều phải “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân”.
Hồ Chí Minh là người đã hóa thân một cách toàn vẹn và trọn vẹn vào trong nhân dân. Hồ Chí Minh là người thấu hiểu dân tình, chăm sóc dân số, nâng cao dân trí để không ngừng nghỉ thực hành dân chủ cho nhân dân.
Trong hoạt động và sinh hoạt giải trí cách mạng cũng như trong môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường đời thường, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh và sự sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân. Người từng nói: Dân ta rất thông minh, biết xử lý và xử lý mọi việc làm một cách nhanh gọn mà nhiều cán bộ nghĩ mãi không ra, “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì trở ngại vất vả mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”. Đó là sự việc tổng kết thực tiễn cách mạng rất sâu sắc: Phải không ngừng nghỉ học dân. Có gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân mới hiểu được rằng: “Nhân dân ta rất cần mẫn, thông minh và khôn khéo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất nhiều kinh nghiệm tay nghề quý báu”. Vì vậy, Người khuyên cán bộ “cần tham gia tổng kết những kinh nghiệm tay nghề quý báu ấy”.
Người tâm niệm: Nhà nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, dân vẫn cứ chết đói, chết rét thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Là công bộc, là đầy tớ của dân thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ phải chăm sóc cho đời sống của nhân dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ tiềm năng của nước ta là:
“1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học tập”.
Người còn nói “Chúng ta đã hi sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ”, “mọi quyền hành đều ở nơi dân”, nhân dân thật sự là ông chủ tối cao của chính sách mới. Người viết: “Chính quyền dân chủ nghĩa là cơ quan ban ngành sở tại do người dân làm chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “nước ta là nước dân chủ, mọi người dân có quyền làm, có quyền nói” hay “Nhiệm vụ của cơ quan ban ngành sở tại dân chủ là phục vụ nhân dân”, “Chế độ ta là chính sách dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”. Trong chính sách mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc bản địa là đem lại quyền làm chủ thực sự cho những người dân dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành. Dân là chủ, nghĩa là trong xã hội Việt nam, nhân dân là người chủ của nước, nước là nước của dân. Các cơ quan đảng và nhà nước là tổ chức được dân ủy thác làm công vụ cho dân.
Trong quan hệ giữa dân và Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm: Dân là chủ và dân làm chủ thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ và làm đầy tớ cho dân. Đầy tớ là công bộc của dân, với nội hàm là vì quyền lợi chung mà gánh vác việc dân, trung thành và tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Họ phải như những người dân lính vâng mệnh quốc dân mà thi hành trách nhiệm, thay mặt dân để ra quyết định, toàn tâm, toàn ý phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Khi bàn về tiềm năng hoạt động và sinh hoạt giải trí của Đảng, Hồ Chí Minh xác định Đảng không còn tiềm năng nào khác là đem lại quyền lợi cho dân. Để thực hiện được tiềm năng đó, Đảng phải thu phục, đoạt được nhân dân, muốn vậy, Đảng phải làm tròn trách nhiệm là người đầy tớ của nhân dân. Người đã viết thật sâu sắc “Người xưa nói: quan là công bộc của dân, ta cũng hoàn toàn có thể nói rằng: Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các việc làm Chính phủ làm phải nhằm mục đích vào một mục tiêu duy nhất là mưu tự do niềm sung sướng cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi nhân dân lên trên hết thảy”. Người nói: “Làm Chủ tịch nước mệt lắm. Trăm việc đều phải lo. Trời mưa, trời nắng, gió bão,... chưa ai lo, tôi đã phải lo”. Người thấy được một triết lý sâu xa rằng, cơm tất cả chúng ta ăn, áo tất cả chúng ta mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên tất cả chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám phụ trách trước dân cả về lời nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền chắc, chịu đựng gian truân, quan tâm và tìm mọi cách xử lý và xử lý kịp thời, hiệu suất cao những nhu yếu mà dân đặt ra, kể cả đồng ý sự quyết tử để bảo vệ dân, phấn đấu vì sự ấm no, niềm sung sướng của nhân dân.
3. Đời tư trong sáng, môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường riêng giản dị và nhã nhặn hết mực
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường sinh hoạt hằng ngày, đó là đời tư trong sáng, môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường riêng giản dị và đức nhã nhặn hết mực. Người coi khinh sự xa hoa để sống một cuộc sống trong sạch, suốt đời thực hành cần, kiệm, liêm, chính một cách cần mẫn.
Hồ Chí Minh luôn luôn nói đi đôi với làm. Trong hành trình dài tìm đường cứu nước, dù ở đâu, làm gì, Hồ Chí Minh đồng ý mọi việc làm, miễn là việc đó có lợi cho tổ chức, cho cách mạng. Người là tấm gương sáng về người lãnh đạo, người đứng đầu ở vị trí cao nhất nhưng luôn trung thành, tận tụy vì quyền lợi của Tổ quốc và nhân dân, không mưu cầu quyền lợi riêng cho thành viên và mái ấm gia đình. Người tâm sự khi phải giữ trọng trách Chủ tịch nước: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh sự nghiệp phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đông bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm thế nào để cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng luôn có thể có cơm ăn, áo mặc, ai cũng khá được học tập. Riêng phần tôi thì làm một chiếc nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biết để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với những cụ ông cụ bà già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
Tư tưởng và tấm gương “tuyệt nhiên không ham muốn công danh sự nghiệp phú quý chút nào” một lần nữa lại được Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (31-10-1946): “Lần này là lần thứ hai Quốc hội phó thác cho tôi phụ trách Chính phủ một lần nữa. Việt Nam không được độc lập, không được thống nhất thì bất kỳ Quốc hội ủy cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm. Tôi xin nhận. Giờ tôi tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là người tham quyền cố vị, mong được thăng quan, phát tài”. Trong lời tuyên bố của Hồ Chí Minh, tất cả chúng ta để ý quan tâm rằng Người nhấn mạnh vấn đề việc đảm nhận chức vụ trong một thực trạng đất nước trở ngại vất vả, đầy gian truân, quyết tử khi “Việt Nam không được độc lập, không được thống nhất”. Chức vụ đó là vì Quốc hội (nhân dân) ủy thác thì phải gắng sức làm. Còn khi đồng bào đã cho lui thì lại vui vẻ trở về môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường của một người dân thông thường.
Người luôn xác định: Sự nghiệp anh hùng cách mạng Việt Nam là của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; còn khuyết điểm thì Người nhận về mình. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới đứng trước toàn dân để Tự phê bình, nhận lấy khuyết điểm của tớ và nhận định rằng do mình “tài hèn đức mọn, cho nên vì thế chưa làm đầy đủ những sự mong ước của đồng bào”. Có lẽ, Hồ Chí Minh là lãnh tụ duy nhất trên thế giới có nhiều đóng góp vĩ đại cho Tổ quốc mình, nhưng khi đi vào cõi vĩnh hằng trên ngực áo không hề có bất kỳ một tấm huân, huy chương nào.
II. YÊU CẦU RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, nêu cao tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Điểm mấu chốt của sự việc khác lạ cơ bản giữa đạo đức cũ và đạo đức mới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, là: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Đạo đức cũ là đạo đức của giai cấp tư sản, của phong kiến, đạo đức áp bức và bóc lột. Còn đạo đức mới là đạo đức cách mạng, đạo đức hướng tới giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, đưa lại môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường ấm no, tự do cho tất cả mọi người. Vì vậy, cán bộ, đảng viên nên phải ý thức được sự nghiệp cao cả đó; đưa nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành người chủ nước nhà, sự nghiệp cách mạng đó là của toàn dân. Người cán bộ, đảng viên phải thấu hiểu và thấm nhuần một cách triệt để: Trung thành với cách mạng đó đó là trung thành với sự nghiệp của nhân dân. Hồ Chí Minh nhắc nhở, dù ở trong bất kỳ thực trạng nào thì cũng phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết, trước hết. Cán bộ phải ra sức phấn đấu để thực hiện tiềm năng của Đảng, rất là trung thành phục vụ nhân dân. Có trung thành và quyết tâm phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc bản địa thì mới dám dũng cảm quyết tử quên mình vì nghĩa lớn. Lòng trung thành cao đẹp ấy phải được thể hiện bằng hành vi thiết thực, rõ ràng hằng ngày, trong từng việc làm phải biến khát vọng làm thế nào để cho “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng luôn có thể có cơm ăn áo mặc, ai cũng khá được học tập” của Hồ Chí Minh thành hiện thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy mỗi cán bộ rằng: “Trong xã hội không còn gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho quyền lợi của nhân dân”. Người khuyên bảo cán bộ: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”. Phải hết lòng rất là phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân và tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, tổ chức tuyên truyền, thuyết phục nhân dân, đồng thời phải lắng nghe, học tập nhân dân. Thấm nhuần lời dạy của Người, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI xác định: “Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, rất là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Trong chính sách tất cả chúng ta, địa vị của người dân là cao nhất, dân là chủ: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Một yêu cầu có tính nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đã đặt ra là phải xây dựng pháp luật để bảo vệ những quyền tự do dân chủ và cán bộ phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của nhân dân, mặc dầu ở bất kỳ tình huống nào thì cũng phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết và trước hết. Người viết: “Các bạn là viên chức của Chính phủ Dân chủ Cộng hoà mà những bạn đã giúp xây hình thành. Chính thể Dân chủ Cộng hòa của ta tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã thắng lợi nhiều cuộc thử thách, nó đã chứng tỏ rằng quả thật là đầy tương lai. Do đó, trách nhiệm những bạn phải tuyệt đối trung thành với cơ quan ban ngành sở tại dân chủ”.
Cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng, với đất nước phải được thể hiện trong việc làm hằng ngày, đó là: hướng tới phục vụ nhân dân, vì quyền lợi của nhân dân. Bảo vệ thành quả chính đáng của cách mạng cũng nghĩa là phải bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Đó là đạo đức chân chính của người cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp.
2. Kiên quyết chống tham ô, tiêu tốn lãng phí, quan liêu, thực hành dân chủ.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội lúc bấy giờ, tham nhũng đang làm cản trở công cuộc thiết kế đất nước, cản trở sự nghiệp công nghiệp hoá, tân tiến hóa đất nước, là quân địch nguy hiểm của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định rằng: cách mạng là để triệt diệt những cái xấu, xây dựng những cái tốt. Chúng ta làm cách mạng là tiêu diệt triệt để chính sách thực dân, phong kiến, để xây dựng dân chủ mới. “Thực dân, phong kiến tuy bị tiêu diệt, nhưng cái nọc xấu của nó (tham ô, tiêu tốn lãng phí, quan liêu) vẫn còn, thì cách mạng vẫn chưa hoàn toàn thành công, vì nọc xấu ấy ngấm ngầm ngăn trở, ngấm ngầm phá hoại sự nghịêp xây dựng của cách mạng”.
Với quyết tâm đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tương hỗ update, phát triển năm 2011). Cương lĩnh chỉ rõ tiềm năng tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế tài chính của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, niềm sung sướng”. Để thực hiện thành công tiềm năng tổng quát này, Đại hội đặc biệt chú trọng đến việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu tốn lãng phí một cách có hiệu suất cao. Trong cuộc đấu tranh này, nên phải: “Nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức; công khai minh bạch, minh bạch tài sản của cán bộ, công chức. Tăng cường công tác thao tác giám sát, thực hiện dân chủ, tạo cơ chế để nhân dân giám sát những việc làm có liên quan đến ngân sách, tài sản của Nhà nước”. Rõ ràng, chống tham nhũng là một quyết tâm chính trị lớn của Đảng. Để thực hiện quyết tâm đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, tự giác “thực hiện chính sách công khai minh bạch, minh bạch về kinh tế tài chính, tài chính…; thực hiện có hiệu suất cao việc kê khai và công khai minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định”. Mỗi cán bộ, công chức, đảng viên và nhân dân phải sống và thao tác theo pháp luật; sáng tạo, kỷ cương trong lao động; tiết kiệm trong lối sống và việc làm. Muốn đạt được tiềm năng kế hoạch phát triển kinh tế tài chính - xã hội 2011 - 2022 mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra, ngoài việc phát huy tốt những yếu tố nội lực và ngoại lực, thực hiện triệt để, đồng bộ những giải pháp, thì một yếu tố quan trọng và cần kíp là chống tham nhũng.
Đi liền với nạn tham nhũng là nạn tiêu tốn lãng phí, đó cũng là một thứ giặc nội xâm. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải thực hành tiết kiệm, chống tiêu tốn lãng phí. Trong thời gian qua, do cách tổ chức quản lý chưa tốt của cán bộ nên có quá nhiều nơi để xảy ra tình trạng tiêu tốn lãng phí của công đến mức phải chú ý. Hồ Chí Minh quan niệm tiêu tốn lãng phí của công tuy không lấy của công cho riêng thành viên như tham nhũng, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ, có khi tai hại hơn hết tham nhũng và trộm cướp. Lãng phí của công điển hình là những đơn vị công quyền dùng vật liệu, điện nước một cách phí phạm; những xí nghiệp dùng máy móc và nguyên vật liệu không đúng mức; những đơn vị dùng xe vào mục tiêu thành viên, không tiết kiệm xăng dầu; những dự án công trình bất Động sản đầu tư giàn trải, không hiệu suất cao,… Những thứ bệnh đó một phần là vì hậu quả của xã hội cũ để lại, do lòng tự tư, tự lợi, ích kỷ, hại dân mà ra. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước, làm khủng hoảng rủi ro cục bộ kinh tế tài chính - xã hội. Cho nên trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước là phải triệt để vô hiệu những căn bệnh đó và tăng cường thực hành tiết kiệm; có như vậy mới thực hiện được đạo đức mới, đạo đức cách mạng, mới làm cho dân cường, nước thịnh.
Khi nói về vai trò của việc chống tiêu tốn lãng phí trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã từng căn dặn tất cả chúng ta là phải thông qua pháp luật để nhổ tận gốc tất cả những hiện tượng kỳ lạ tiêu tốn lãng phí. Hồ Chí Minh còn lưu ý tất cả chúng ta là ngoài vai trò của pháp luật, phải phát động tư tưởng của quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tham ô, tiêu tốn lãng phí, để biến “hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng” thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, tiêu tốn lãng phí còn chỗ ẩn nấp, góp thêm phần làm cho Đảng và Nhà nước ta trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng thành công.
Để làm được những điều này, dứt khoát phải chống bệnh quan liêu vì quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô và tiêu tốn lãng phí. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó chắc có tham ô, tiêu tốn lãng phí; nơi nào bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều tiêu tốn lãng phí, tham ô”. Vì vậy, chống tham ô, tiêu tốn lãng phí phải gắn với chống quan liêu và là việc làm thiết yếu, thường xuyên. Bệnh quan liêu làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta. Nó phá hoại những phẩm chất đạo đức cách mạng mà tất cả chúng ta đang xây dựng là: Cần, kiệm, liêm, chính. Thấy được tác hại của căn bệnh này, tất cả chúng ta nên phải quyết tâm tẩy sạch nó đi. Cũng như: “ Muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi. Muốn thành công trong việc tăng gia tài xuất và tiết kiệm cũng phải nhổ cỏ cho sạch, nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô, tiêu tốn lãng phí và bệnh quan liêu”.
Nguyên nhân sinh ra quan liêu, từ đó sinh ra tham nhũng, tiêu tốn lãng phí là vì xa dân, xa rời môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường của nhân dân; vì không tin dân; vì coi thường dân, không thương dân; vì sợ dân. Để chữa bệnh quan liêu, nên phải gần dân, học hỏi ở dân và đặc biệt là phải thực hành dân chủ. Dân chủ là nhờ vào lực lượng của quần chúng, đi đúng đường lối của quần chúng. Cho nên, “Phong trào chống tham ô, tiêu tốn lãng phí,quan liêu ắt phải nhờ vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”. Cũng như mọi việc khác, tất cả chúng ta phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ cho dân, phải làm cho quần chúng làm rõ, làm cho quần chúng nhiệt huyết tham gia thì mới chắc như đinh thành công, phải làm thế nào để phát huy được tiếng nói của tất cả những tầng lớp nhân dân, phát huy dân chủ để phòng và chống có hiệu suất cao tham ô, tiêu tốn lãng phí, quan liêu.
3. Ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đưa ra quyết tâm trong nhiệm kỳ này phải “tạo nền tảng để đến năm 2022 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng tân tiến; đến thời điểm giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp tân tiến, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đại hội xác định bảy trách nhiệm trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ huy:
(1) Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
(2) Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động và sinh hoạt giải trí của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
(3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, tân tiến hóa, hội nhập quốc tế của đất nước.
(4) Xây dựng đồng bộ khối mạng lưới hệ thống kiến trúc kinh tế tài chính, nhất là khối mạng lưới hệ thống giao thông vận tải.
(5) Đổi mới quan hệ phân phối, chủ trương tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chủ trương tiền lương, thu nhập lúc bấy giờ.
(6) Tập trung xử lý và xử lý một số trong những vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội).
(7) Đẩy mạnh, nâng cao hiệu suất cao cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu tốn lãng phí để thực sự ngăn ngừa, đẩy lùi được tệ nạn này.
Tiếp tục đẩy mạnh học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là góp thêm phần thiết thực và trực tiếp thực hiện tốt cả bảy trách nhiệm nêu trên, góp thêm phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Yêu cầu của việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là phải thường xuyên và tự giác trong việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, lối sống của từng người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên tinh thần đó, mỗi thành viên, mỗi tập thể nên phải tự cảm thấy bức xúc, tự cảm nhận nhu yếu tự thân phải thực hiện cho chính mình, vì chính vì sự phát triển của thành viên và tập thể mình.
Một yêu cầu quan trọng nữa là tính hiệu suất cao phải được quan tâm đúng mức. Từ đó, cấp ủy đảng những cấp phải đặc biệt coi trọng việc gắn trách nhiệm này với việc thực hiện trách nhiệm chính trị và Chương trình hành vi thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tại địa phương, đơn vị mình, nhất là xác định một số trong những nội dung rõ ràng, một số trong những vấn đề tư tưởng, đạo đức gây bức xúc trong ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, để tập trung chỉ huy xử lý và xử lý mang lại kết quả rõ ràng, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quan tâm đúng mức với vấn đề xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, tu dưỡng, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ và cán bộ, đảng viên. Từ công tác thao tác chỉ huy, tổ chức triển khai đòi hỏi tinh thần dữ thế chủ động, sáng tạo của những ngành, những cấp, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trên cơ sở yêu cầu chung, nhờ vào đặc điểm, tình hình của từng địa phương, từng đơn vị để lựa chọn lộ trình hợp lý cho từng nội dung việc làm, phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng cơ quan, tổ chức, từng cán bộ phụ trách để phù phù phù hợp với điều kiện thực tiễn. Càng xây dựng kế hoạch sát phù phù hợp với thực tiễn, việc học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh càng đi vào môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường một cách thiết thực, tránh bệnh hình thức, qua loa, chiếu lệ, hoặc ngược lại, cầu kỳ, tiêu tốn lãng phí.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
1. Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền tư tưởng “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, nâng cao nhận thức về trách nhiệm đối với Tổ quốc, với nhân dân.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương “Tận trung với nước, tận hiếu với dân”, không một phút ngơi nghỉ, suốt đời suy nghĩ, lo ngại, chăm sóc cho nước, cho dân. Việc đẩy mạnh công tác thao tác giáo dục và tuyên truyền tư tưởng “tận trung với nước, tận hiếu với dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lúc bấy giờ sẽ khuyến khích mỗi cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với quyền lợi của đất nước, của nhân dân, đặt độc lập dân tộc bản địa, độc lập lãnh thổ và quyền lợi quốc gia lên trên hết và trước hết.
Ý thức hết lòng, rất là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của từng người phải được phát hiện, cổ vũ, động viên trong từng hành vi nhỏ nhất, khuyến khích từng người đem hết tài năng, sức lực góp sức cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho việc phát triển của đất nước theo con phố xã hội chủ nghĩa.
Để học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân thì mỗi cán bộ, công chức phải hoàn thành xong trách nhiệm, chức trách của tớ theo đúng Luật cán bộ công chức. Biểu hiện rõ ràng là: Làm tốt những việc làm hằng ngày, nhất là những việc liên quan trực tiếp tới đời sống của người dân.
Đồng thời với việc nâng cao ý thực trách nhiệm của người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, công tác thao tác giáo dục, tuyên truyền cần nhất quyết đấu tranh, phê phán những quan niệm và biểu lộ sai trái. Đó là sự việc lầm lẫn giữa trọng trách được tổ chức phó thác với quyền lực thành viên. Sự lẫn lộn đó dẫn tới cơn khát quyền lực, chạy quyền, mua quyền, bán quyền, lộng quyền, cửa quyền, tham quyền cố vị. Khi có quyền mà thiếu lương tâm sẽ trở nên hủ bại, trở thành sâu mọt của dân, đục khoét dân, “dĩ công vi tư”. Sinh thời Bác Hồ đã chú ý: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để thao tác cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”.
2. Hiện thực hóa và quyết tâm tổ chức thực hiện là “người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân” trong tất cả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương.
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang làm cho lòng dân không yên. Vì thế, cạnh bên việc giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì việc quyết tâm thực hiện và tuân theo tấm gương của Bác mới thực sự đem lại ý nghĩa cho việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nói phải đi đôi với làm, lý luận phải gắn sát với thực tiễn. Quần chúng đã chán cái lối “nói mà không làm”, “nói hay nhưng làm dở”, “nói người nhưng mình không làm”… của một bộ phận cán bộ. Để thực sự lấy lại được hình ảnh những cán bộ, đảng viên tận tụy, trung thnàh vì dân, một mặt, tất cả chúng ta cần động viên, khuyến khích cán bộ, đảng viên tuân theo lời Bác; mặt khác, cần nhất quyết trừng trị và loại trừ những kẻ hành dân, khinh dân, lừa đảo và ăn cắp của dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, từng người, dù ở cương vị nào thì cũng phải tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức. Người đã có nhiều lời dạy rất rõ ràng về đạo đức của giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội. Đến nay những lời dạy của Người vẫn còn nguyên giá trị và cần phải rõ ràng hóa trong điều kiện mới. Cơ sở để vận dụng, rõ ràng hóa những lời dạy của Bác với những giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội là đường lối, quan điểm, giải pháp… đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới ở nước ta lúc bấy giờ vì tiềm năng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công minh, văn minh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2022. Đó là bảo vệ quyền làm chủ của dân “dân biếit, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thực hiện đường lối quần chúng “gần dân, học dân, gắn bó với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, thực hiện được trách nhiệm của người cán bộ “nắm vững dân tình, làm rõ dân tâm, đảm bảo dân số, nâng cao dân trí”. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức dù thao tác ở vị trí nào thì cũng đều cần quán triệt những quan điểm chung đó.
Cần rõ ràng hoá thái độ tận tụy, trung thành phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân thành những trách nhiệm trên từng vị trí công tác thao tác, từng loại việc làm. Thấm nhuần, quán triệt sâu sắc tư tưởng và tấm gương vì nước quên thân, vì nhân dân phục vụ của Bác Hồ để vận dụng, rõ ràng hóa nội dung những lời dạy của Bác đối với ngành, địa phương, giới mình trong điều kiện mới, gắn với hoàn thành xong tốt những trách nhiệm chính trị.
3. Kết hợp ngặt nghèo giữa tổ chức, hướng dẫn với động viên, kiểm tra, giám sát việc tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Việc học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh khuynh hướng về phía việc nâng cao vai trò tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, cần động viên, khuyến khích, hướng dẫn mọi người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tự giác đề ra chỉ tiêu phấn đấu thiết thực. Trong đợt học tập chuyên đề lần này, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức công tác thao tác ở mọi cấp, mọi ngành, nhất là những cán bộ lãnh đạo chủ trì, chủ chốt, cần xây dựng kế hoạch thành viên học tập và tuân theo lời Bác với những việc làm rõ ràng, định kỳ báo cáo trước chi bộ, cơ quan, đơn vị.
Để tương hỗ mỗi thành viên thực hiện học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi tập thể đảng, cơ quan ban ngành sở tại, đoàn thể xây dựng những chương trình hành vi, giúp sức, giám sát và kiểm tra việc tự giác tuân theo của cán bộ, đảng viên, hội viên, đoàn viên của tớ. Định kỳ yêu cầu những thành viên báo cáo những việc đã tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
4. Phát huy vai trò nêu gương trong học tập và tuân theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Một trong những nguyên tắc thực hành đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người đều phải nêu gương về đạo đức. Ông bà nêu gương cho con cháu, cha mẹ nêu gương cho con, anh chị nêu gương cho em, đảng viên nêu gương cho quần chúng… Phát huy vai trò nêu gương trong thực hành đạo đức có ý nghĩa to lớn không riêng gì có trước mắt mà còn mãi mãi sau này.
Trong phạm vi xã hội, việc nêu gương về đạo đức của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt những cấp, có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa thành viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra câu nói rất hay và rất đúng của nhân dân là “Nhân dân thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Theo yêu cầu đó của dân, trong đảng và khối mạng lưới hệ thống quản lý nhà nước, việc lãnh đạo đi trước, làm trước để đảng viên, quần chúng, nhân dân đi sau, tuân theo có ý nghĩa rất quan trọng. Yêu cầu về tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý là phải biết nêu gương. Không biết nêu gương, không nêu gương được thì không, hoặc chưa xứng đáng là người lãnh đạo tốt.
Việc nêu gương về đạo đức không riêng gì có là sự việc vận động, mà phải trở thành những quy định, sự ràng buộc trách nhiệm để từng người đều tự giác và nên phải thực hiện. Các cấp, những ngành cần dữ thế chủ động tổ chức thực hiện những quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
(Tài liệu do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn)