Kinh Nghiệm Hướng dẫn Những tác phẩm văn học sau năm 1975 Chi Tiết
Dương Gia Minh đang tìm kiếm từ khóa Những tác phẩm văn học sau năm 1975 được Cập Nhật vào lúc : 2022-04-25 18:31:08 . Với phương châm chia sẻ Bí quyết về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi Read nội dung bài viết vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Tác giả lý giải và hướng dẫn lại nha.
Nội dung chính
- 1. Thành tựua. Đổi mới về ý thức nghệ thuật và thẩm mỹ của người cầm bútb. Những thành tựu về thể loạic. Những đổi mới về nội dung và nghệ thuật2. Hạn chếNhững chuyển biến và một số trong những thành tựu ban đầuVideo liên quan
1. Tác phẩm xuất bản tại miền Nam trước năm 1975:
- Nỗi do dự của Kim Dung (tiểu luận, nxb Văn Mới, Sài Gòn 1972)- Bão rớt (tập truyện ngắn, nxb Trí Đăng, Sài Gòn 1973) *- Tiếng chim vườn cũ (truyện dài, nxb Trí Đăng, Sài Gòn 1973)- Qua cầu gió bay (truyện dài, đăng trên tạp chí Bách Khoa từ số 350 đến số 357, nxb Văn Mới, Sài Gòn, in thành tập năm 1974)
- Đường một chiều (truyện dài, Trao Giải Trung tâm Văn bút Việt Nam, 1974, nxb Nam Giao, Sài Gòn 1974)
2. Tác phẩm xuất bản ở hải ngoại:
- Ngựa nản chân bon (truyện ngắn, nxb Người Việt, Hoa Kỳ 1984)- Xuôi dòng (tập truyện ngắn, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ 1987)- Mùa biển động (trường thiên tiểu thuyết, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ, xuất bản từ 1982-1989) gồm tất cả 5 tập:. Những đợt sóng ngầm, 1984. Bão nổi, 1985. Mùa biển động, 1986. Bèo giạt, 1988. Tha hương, 1989Tái bản lần thứ 6 năm 2001.- Sông Côn mùa lũ (trường thiên tiểu thuyết, 4 tập, viết từ năm 1977-1981). Nhà xuất bản An Tiêm (Hoa Kỳ) xuất bản trong năm 1990,1991. Nhà xuất bản Văn Học (Tp Hà Nội Thủ Đô) và Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học tái bản lần thứ nhất năm 1998. Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, nhà xuất bản Văn Học và nhà sách Văn Lang (Sài Gòn) tái bản lần thứ nhì năm 2003. Nhà xuất bản Văn Học và Nhà sách Thanh Nghĩa tái bản lần thứ ba năm 2007- Nghĩ về văn học hải ngoại (tiểu luận, nxb Văn Mới, Hoa Kỳ 2003)- Bạn văn, một thuở…(tạp luận, nxb Văn Mới, Hoa Kỳ 2005)
3. Tác phẩm chưa xuất bản:
- Tình và Đạo trong thơ Hàn Mặc Tử (tiểu luận) - Vào đời (truyện dài), đã đăng một phần trên tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn, 1973-1974) - Đêm hoang (truyện dài), đã đăng trên tuần báo Đồng Nai (Hoa Kỳ) - Mây bay về đâu (truyện dài)4. Những nội dung bài viết trên tạp chí Văn Học (California, Hoa Kỳ):
- Đất Khách, khúc ngâm trên đất tạm dung. (VH 5)- Nguyễn Hiến Lê trong đời tôi (VH 8&9)- Thư gửi một người bạn trẻ (VH 11)- Thư ngày xuân gửi người bạn trẻ (VH 12-13)- Đàm thoại với nhóm Thế Hệ ở Houston (VH 15)- Tìm hiểu thế giới nhân vật của Võ Phiến (VH 19)- Tạ ơn đời, tạ ơn anh (VH 21)- Doãn Quốc Sỹ, người anh khả kính (VH 31)- Những ý nghĩ về một bài báo đăng trên Đoàn Kết (VH 38)- Lời cuối cho một bộ trường thiên (VH 42) (phụ lục của cục Mùa Biển Ðộng)- Nhìn lại một đoạn đường (VH 45)- Đôi điều suy nghĩ khi đọc sách báo xuất bản ở Việt nam lúc bấy giờ (VH 49)- Phan Huy Ích ở Phú Xuân (trích Sông Côn Mùa Lũ, VH 55 9/1990)- Góp ý về một quan điểm ( VH59&60)- Đọc lại thơ Tuệ Sỹ(VH65)- Chaka (VH 70-71)- Lại bàn một chuyện cũ ( thiếu VH 74)- Bệnh hoang tưởng. Câu chuyện văn học (VH 76)- Mùa Vu lan, nghĩ về mẹ (VH 77)- Cơn khủng hoảng rủi ro cục bộ của truyện ngắn (VH 79)- Nhìn lại một năm sinh hoạt văn học và xuất bản hải ngoại (VH 80-81)- Văn học lưu vong hay văn học di dân (VH 99)- Khả năng và Triển vọng của văn học hải ngoại (VH 103)- Chúc Tết (VH 105-106)- Vài ghi nhận về sinh hoạt văn chương và xuất bản năm 1994 (VH 105-106)- Trời xanh bên kia sông (VH 108)- Hai mươi năm văn xuôi hải ngoại (VH 109)- Viết về trận chiến tranh Việt Nam (VH 115)- Những chim báo bão ( VH 114&115)- Nhìn lại một năm văn chương (VH 117-118)- Hoạt cảnh của ngày xuân (VH 129-130)- Ði với Về, cùng một nghĩa như nhau (VH 133)- Đi vào cõi thơ Khoa Hữu (VH 141-142)- Nỗi đơn độc lớn lao của Mai Thảo (VH 143)- Kho tàng của quá khứ (VH 149)- Tình trạng lão hoá trong sinh hoạt văn học (VH 153-154)- Đọc Tâm Thanh, từ một góc riêng (VH 159)- Đọc “Chân mang giày số 6” (VH 160)- Ðọc Miêng (VH 161)- Hai con phố vào đời, vào thơ (VH 162)- Đọc “Tùy bút” của Trúc Chi (VH 164)- Đọc “Về với biển cả” của Hoài Mỹ (VH 177-178)- Mười sáu năm nhìn lại (VH 181)- Thực chất và lịch sử thuở nào (VH 183)- Vài ghi nhận khi đọc truyện Phạm Hải Anh ( VH 193)- Đọc "Con Nữ", tập truyện của Đỗ Quỳnh Dao (VH 197)
- Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử ( VH197)
5. Các bài đăng trên những tạp chí khác
- Đọc Lại Hoàng Đạo- Ðồng hồ tạm dừng từ 30.4.1975 - Huế, nơi để tưởng nhớ- Huyền thoại Mẹ- Khẩu Nghiệp- Kỷ niệm về hai câu đối- Ngày Xuân con én đưa thoi- Ngày xuân nghĩ về quê hương- Ngô Thì Nhậm, Khuôn Mặt Trí Thức Lớn Thời Tây Sơn- Nhìn lại những trang viết cũ- Những Ảo Tưởng Một Thời- Những Vết Rạn Đời Thường- Sống và viết tại hải ngoại- Tám Khùng- Tản mạn về biến cố 11 tháng Chín- Văn chương của Võ Phiến “đứng” được với thời gian- Đọc Phạm Việt Châu, hai mươi lăm năm sau...- Nghĩ về Bùi Giáng, Hàn Mặc Tử và Thanh Tuệ!- Trinh Vương, một kỷ niệm đẹp- Ngày đứa con hoang trở về
6. Thư riêng - Thư Gởi Vũ Phan Long - Thư gửi Anh Lương Thư Trung
Chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất -> văn học nước sang một quá trình mới và tinh thần của con người không hề như trước nữa nhưng văn học vẫn còn tiếp tục vận động theo quán tính tạo ra hiện tượng kỳ lạ lệch pha giữa người cầm bút và quần chứng văn học.
– Từ năm 1980 trở đi, văn học đã đề cập đến những vấn đề không được nhắc tới trước 1975. Nhìn thẳng vào những tổn thất nặng nề, mất mát trong trận chiến tranh.
+ Xuất hiện những cây bút chống tiêu cực
+ Quan điểm nghệ thuật và thẩm mỹ cũng thay đổi, tiêu chí văn hóa và bản sắc dân tộc bản địa được đề cao.
* Nhìn lại toàn bộ quá trình này ta thấy văn học từ 1975 đến hết thế kỷ XX đã đạt được một số trong những thành tựu và hạn chế sau:
1. Thành tựu
a. Đổi mới về ý thức nghệ thuật và thẩm mỹ của người cầm bút
– Hầu hết những nhà văn, nhà thơ đều chung một quan niệm, một suy nghĩ không thể viết như cũ được.
– Phải có cái nhìn hiện thực sâu sắc, không đơn giản một chiều.
– Con người là một sinh thể phong phú, phức tạp, còn nhiều bí hiểm phải mày mò.
– Các nhà văn đã thức tỉnh sâu sắc ý thức thành viên, muốn tự xác định mình, muốn tự tạo cho mình một tiếng nói riêng, một phong cách riêng.
b. Những thành tựu về thể loại
– Về văn xuôi, thời gian đầu phóng sự, tiểu thuyết, ngữ cảnh sân khấu phát triển mạnh. Về sau nghệ thuật và thẩm mỹ kết tinh ở một số trong những truyện ngắn, cây bút tiêu biểu là Lưu Quang Vũ, Nguyễn Minh Châu.
– Về thơ nổi lên PT viết trường ca ở những nhà thơ xuất thân từ quân đội, tiêu biểu là Thanh Thảo, Hữu Thỉnh. Ngoài ra, xuất hiện một số trong những nhà thơ đáng để ý quan tâm.
– Về lý luận phê bình văn học:
+ Có nhiều cuộc tranh luận khá sôi nổi xung quanh vấn đề quan hệ giữa văn học và chính trị, văn học và hiện thực.
+ Tiêu chí đánh giá có những quy đổi nhất định, để ý quan tâm nhiều hơn nữa đến giá trị nhân văn, ý nghĩa nhân bản, hiệu suất cao thẩm mỹ của văn học.
c. Những đổi mới về nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ
– Nội dung:
+ Có sự đổi mới trong quan niệm về con người: Trước 1975, văn học đa phần quan tâm đến con người đòi công, con người lịch sử là nhân vật của sử thi. Sau 1975 con người được nhìn nhận ở phương diện thành viên trong quan hệ đời thường.
+ Cảm hứng thế sự tăng mạnh, cảm hứng sử thi giảm dần. Văn học quan tâm nhiều hơn nữa đến số phận thành viên.
– Về nghệ thuật và thẩm mỹ: Phương thức trần thuật trở nên đa dạng hơn, giọng điệu trần thuật phong phú hơn, ngôn từ văn học gắn với hiện thực đời thường hơn.
2. Hạn chế
Một số cây bút đuổi theo thị hiếu thấp kém của một số trong những bộ phận công chúng, biến những sáng tác văn học thành một thứ sản phẩm & hàng hóa để câu khách làm cho nền văn học khó tránh khỏi biểu lộ xuống cấp.
Chiến thắng ngày 30/4/1975 đã mở ra thời kì độc lập, tự do và thống nhất cho đất nước nhưng sau đó là một thập kỉ đầy trở ngại vất vả, thử thách do hậu quả trận chiến tranh kéo dãn suốt 30 năm.
Từ năm 1986, nhờ công cuộc đổi mới, kinh tế tài chính đất nước chuyển sang nền kinh tế tài chính thị trường và văn hóa cũng luôn có thể có điều kiện tiếp xúc với văn hóa nhiều nước trên thế giới.
Những chuyển biến và một số trong những thành tựu ban đầu
Giai đoạn sau năm 1975, thơ không hề phát triển mạnh mẽ và tự tin như trước mà nở rộ những tác phẩm trường ca. Khuynh hướng chung của trường ca là tổng kết, khái quát về trận chiến tranh, những tác phẩm tiêu biểu gồm: Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu…
– Những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu gồm: Đứng trước biển, Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn; Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng; Thời xa vắng của Lê Lựu; Bến không chồng của Dương Hướng; Nỗi buồn trận chiến tranh của Bảo Ninh.
– Những tác phẩm kịch tiêu biểu gồm: Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Tôi và tất cả chúng ta của Lưu Quang Vũ; Mùa hè ở biển của Xuân Trình.
Văn học quá trình từ năm 1975 đến năm 1986 là đoạn đường chuyển tiếp, trăn trở, tìm đường đổi mới. Từ sau năm 1986 là đoạn đường đổi mới toàn diện theo khuynh hướng dân chủ hóa, mang tính chất chất nhân bản, nhân văn sâu sắc; có tính khuynh hướng về trong, quan tâm tới số phận thành viên trong những thực trạng đời thường, phức tạp với sự đổi mới về nghệ thuật và thẩm mỹ.
Câu hỏi: Các tác phẩm văn học từ 1945 đến 1975?
Trả lời:
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc bản địa Việt Nam, đây cũng là khoảng chừng thời gian khai sinh ra nền văn học mới, gắn sát với lí tưởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Bạn đang xem: Các tác phẩm văn học từ 1945 đến 1975?
Nội dung của bài học kinh nghiệm tay nghề khái quát về những đoạn đường phát triển, những thành tựu đa phần và những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 và những đổi mới bước đầu của văn học Việt Nam quá trình từ năm 1975, nhất là từ năm 1986 đến hết thế kỉ XX.
1. Vài nét về thực trạng lịch sử, xã hội, văn hóa
+ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra kỉ nguyên mới cho đất nước:kỉ nguyên độc lập, tự chủ ->tạo nên nền văn học của chính sách mới,vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Xuất hiện lớp nhà văn mới nhà văn-chiến sỹ.
+ Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trường kì suốt 30 năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc bản địa, trong đó có văn nghệ, tạo nên những đặc điểm riêng biệt của một nền văn học hình thành và phát triển trong thực trạng trận chiến tranh gian truân, ác liệt.
+ Nền kinh tế tài chính nghèo nàn và chậm phát triển, điều kiện giao lưu văn hóa bị hạn chế (đa phần tiếp xúc và chịu ràng buộc văn hóa những nước xã hội chủ nghĩa, rõ ràng là Liên Xô và Trung Quốc…).
Trong thực trạng như vậy, văn học quá trình 1945- 1975 vẫn phát triển và đạt được nhiều thành tựu, đóng góp cho lịch sử văn học những giá trị riêng.
2. Quá trình phát triển và những thành tựu đa phần
– Chặng đường từ năm 1945 đến năm 1954
Văn học quá trình từ năm 1945 – 1954 phản ánh không khí hồ hởi, vui sướng của dân tộc bản địa khi đất nước giành được độc lập và cuộc kháng chiến chống Pháp, gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến. Văn học quá trình này tập trung mày mò sức mạnh và những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng nhân dân. Thể hiện niềm tự hào dân tộc bản địa và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.
Với hình thức thể hiện phong phú, đa dạng như truyện ngắn, kí, thơ, văn xuôi, kịch, lí luận phê bình… nhưng hầu hết đều những tác phẩm đều thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
– Những tác phẩm và tác giả tiêu biểu trong nghành văn xuôi gồm: Một lần tới Thủ đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng; Đôi mắt, Nhật ký ở rừng của Nam Cao; Làng của Kim Lân; Vùng mỏ của Võ Huy Tâm; Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng; Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc…
– Những tác phẩm và tác giả tiêu biểu của nghành thơ kháng chiến gồm: Cảnh Khuya, Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh; Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm; Tây Tiến của Quang Dũng; Đất nước của Nguyễn Đình Thi; Đồng chí của Chính Hữu; đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
– Ngoài văn xuôi và thơ, đây cũng là quá trình phát triển của những thể loại kịch (Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng; Chị Hòa của Học Phi). Riêng mảng lí luận, nghiên cứu và phân tích, phê bình văn học tuy chưa phát triển mạnh nhưng cũng luôn có thể có một số trong những tác phẩm có ý nghĩa quan trọng ra đời.
+ 1955 – 1964:
– Nội dung bao trùm: Hình ảnh người lao động; những đổi thay của con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội với cảm hứng lãng mạn, sáng sủa; Tình cảm sâu nặng với miền Nam trong nỗi đau chia cắt.
– Thành tựu:
+ Văn xuôi: mở rộng đề tài, bao quát nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện thực đời sống.
· Đề tài kháng chiến chống Pháp (Sống mãi với thủ đô, Cao điểm ở đầu cuối, Trứớc giờ nổ súng…)
· Đề tài hiện thực đời sống trước cách mạng tháng Tám (Vợ nhặt, Mười năm, Vỡ bờ…)
· Đề tài công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với sự đổi đời của con người (Sông Đà, Mùa lạc, Cái sân gạch…)
. Thơ: phát triển mạnh mẽ và tự tin với nhiều tác gỉa tiêu biểu ( Gió lộng của Tố Hữu,Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Đất nở hoa và Bài thơ cuộc sống của Huy Cận..)
– Kịch nói: một số trong những tác phẩm được dư luận để ý quan tâm (Một đảng viên của Học Phi, Ngọn lửa của Nguyên Vũ, Quẫn của Lộng Chương…)
->Tóm lại: Văn học quá trình này đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt ở thể loại thơ ca với cảm hứng lãng mạn, tràn đầy nụ cười, niềm sáng sủa và niềm tin tưởng.
+ 1965 – 1975:
– Tập trung viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ -> chủ đề bao trùm: tinh thần yêu nước, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
-Thành tựu:
+Văn xuôi:
· Những tác phẩm truyện, kí ra đời ngay trên tiền tuyến đầy máu lửa đã phản ánh nhạy bén và kịp thời trận chiến đấu của nhân dân miền Nam can đảm và mạnh mẽ và tự tin (Người mẹ cầm súng, Rừng xà nu, Hòn đất…)
· Miền Bắc: truyện, kí cũng phát triển (kí chống Mĩ của Nguyễn Tuân, Dấu chân người lính, Bão biển…)
+ Thơ: đạt nhiều thành tựu xuất sắc đánh dấu bước tiến mới của nền thơ Việt Nam tân tiến.
. Mở rộng và đào sâu vật liệu hiện thực.
. Tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng, chính luận.
. Ghi nhận một thế hệ nhà thơ trẻ chống Mĩ tài năng (Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Bằng Việt…) và hàng loạt những tác phẩm gây tiếng vang (Tập thơ Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường – Chim báo bão của Chế Lan Viên; Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm…)
+ Kịch: cũng luôn có thể có những thành tựu đáng ghi nhận (Quê hương Việt Nam và Thời tiết ngày mai của Xuân Trình, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh…)
+ Nghiên cứu lí luận phê bình:xuất hiện những khu công trình xây dựng có mức giá trị (Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu…)
+ Văn học vùng địch tạm chiếm: vì nhiều lí do không đạt được nhiều thành tựu lớn nếu đánh giá cả mặt tư tưởng và nghệ thuật và thẩm mỹ.
* Nền văn học đa phần vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước -> Đặc điểm bản chất của văn học từ năm 1945- 1975.
+ Mô hình nhà văn – chiến sỹ
+ Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu: tư tưởng cách mạng, văn học là vũ khí phục vụ sự nghiệp cách mạng.
+ Sự vận động, phát triển của văn học ăn nhịp với từng đoạn đường lịch sử của dân tộc bản địa -> văn học là tấm gương phản chiếu những vấn đề trọng đại của lịch sử dân tộc bản địa.
-> Văn học quá trình này như một tấm gương phản ánh những vấn đề lớn lao, trọng đại nhất của đất nước và cách mạng.
3. Nền văn học
a. Nền văn học khuynh hướng về đại chúng
+ Đại chúng: đối tượng phản ánh, đối tượng phục vụ, nguồn tương hỗ update cho lực lượng sáng tác.
+ Nội dung:
. Hình thành quan niệm mới về đất nước: đất nước của nhân dân.
. Quan tâm môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường nhân dân lao động, con phố tất yếu đến với cách mạng, xây dựng và mày mò vẻ đẹp hình tượng quần chúng…
+ Hình thức: ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng; hình ảnh lấy từ kho tàng văn học dân gian; ngôn từ giản dị, trong sáng.
b. Nền văn học đa phần mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn -> Đặc điểm thể hiện khuynh hướng thẩm mĩ của văn học 1945- 1975.
+ Khuynh hướng sử thi:
– Đề tài: những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân tộc bản địa
– Nhân vật chính: những con người đại diện cho tinh hoa, khí phách, phẩm chất, ý chí toàn dân tộc bản địa, tiêu biểu cho lí tưởng dân tộc bản địa hơn là khát vọng thành viên. Văn học mày mò con người ở khía cạnh trách nhiệm, bổn phận, lẽ sống lớn, tình cảm lớn.
+ Cảm hứng lãng mạn:
– Là cảm hứng xác định cái tôi dạt dào tình cảm hướng tới cách mạng.
– Biểu hiện: ca tụng vẻ đẹp của con người mới, môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường mới, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào tương lai đất nước.
->Cảm hứng nâng đỡ con người vượt lên những đoạn đường trận chiến tranh gian truân, máu lửa, hi sinh.
+ Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn phối hợp tạo tinh thần sáng sủa thấm nhuần cả nền văn học 1945-1975 và tạo nên đặc điểm cơ bản của văn học 1945-1975.
1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa
Chiến thắng ngày 30/4/1975 đã mở ra thời kì độc lập, tự do và thống nhất cho đất nước nhưng sau đó là một thập kỉ đầy trở ngại vất vả, thử thách do hậu quả trận chiến tranh kéo dãn suốt 30 năm.
Từ năm 1986, nhờ công cuộc đổi mới, kinh tế tài chính đất nước chuyển sang nền kinh tế tài chính thị trường và văn hóa cũng luôn có thể có điều kiện tiếp xúc với văn hóa nhiều nước trên thế giới.
2. Những chuyển biến và một số trong những thành tựu ban đầu
Giai đoạn sau năm 1975, thơ không hề phát triển mạnh mẽ và tự tin như trước mà nở rộ những tác phẩm trường ca. Khuynh hướng chung của trường ca là tổng kết, khái quát về trận chiến tranh, những tác phẩm tiêu biểu gồm: Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu…
– Những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu gồm: Đứng trước biển, Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn; Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng; Thời xa vắng của Lê Lựu; Bến không chồng của Dương Hướng; Nỗi buồn trận chiến tranh của Bảo Ninh.
– Những tác phẩm kịch tiêu biểu gồm: Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Tôi và tất cả chúng ta của Lưu Quang Vũ; Mùa hè ở biển của Xuân Trình.
Văn học quá trình từ năm 1975 đến năm 1986 là đoạn đường chuyển tiếp, trăn trở, tìm đường đổi mới. Từ sau năm 1986 là đoạn đường đổi mới toàn diện theo khuynh hướng dân chủ hóa, mang tính chất chất nhân bản, nhân văn sâu sắc; có tính khuynh hướng về trong, quan tâm tới số phận thành viên trong những thực trạng đời thường, phức tạp với sự đổi mới về nghệ thuật và thẩm mỹ.
– Văn học từ năm 1945 -1975 tiềm ẩn chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Văn học quá trình này còn có nhiều thành tựu ở những thể loại thơ trữ tình, truyện ngắn.
– Văn học từ năm Từ năm 1975 – 1986, văn học bước vào đổi mới, vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, phát huy tính sáng tạo với những tìm tòi, thể nghiệm mới.
Đăng bởi: Đại Học Đông Đô
Chuyên mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12