Thủ Thuật Hướng dẫn Ai là người khuyên chúa Nguyễn Hoàng vào vùng đất phía Nam để trấn giữ Chi Tiết
Họ và tên học viên đang tìm kiếm từ khóa Ai là người khuyên chúa Nguyễn Hoàng vào vùng đất phía Nam để trấn giữ được Cập Nhật vào lúc : 2022-05-18 19:38:01 . Với phương châm chia sẻ Mẹo Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi Read nội dung bài viết vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.Nguyễn Hoàng (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8, 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay Nguyễn Thái Tổ, Chúa Tiên là vị chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho vương triều Nguyễn (1802 - 1945). Ông quê ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa, ngày này là Gia Miêu Ngoại Trang, thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ông nội (Nguyễn Văn Lưu) và cha ông (Nguyễn Kim) là những trọng thần của triều đình nhà Hậu Lê. Sau cái chết của Nguyễn Kim, người anh rể là chúa Trịnh Kiểm nắm giữ quyền hành đã giết chết anh trai ông là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái Nguyễn Thị Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho mình vào trấn thủ Thuận Hóa, Trịnh Kiểm chấp thuận đồng ý.
Thời đại những chúa Nguyễn ở Đàng Trong là bản lề cho vương triều Nguyễn sau này, dù bị gián đoạn hơn hai thập kỉ trong cuộc đấu tranh phân quyền với nhà Tây Sơn. Người cha đẻ của Đàng Trong đó đó là chúa Tiên - Nguyễn Hoàng. Trong quá trình cực kỳ hiểm nghèo, trở ngại vất vả trùng điệp, ông đã gây hình thành cơ đồ cho những chúa Nguyễn và kể cả nhà Nguyễn sau này, ông có những đóng góp lớn với lịch sử nước nhà, đặc biệt là công cuộc mở mang bờ cõi.
Năm 1525, nhà Lê đang trong những bước suy thoái trầm trọng. Hai năm sau, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Trong số những trung thần nhà Lê chạy sang những nước láng giềng lánh nạn, chờ thời cơ thuận lợi sẽ kéo quân trở về phục hận cho nhà Lê, có quan Hữu Vệ Điện Tiền Tướng quân An Thanh Hầu Nguyễn Kim. Ông đó đó là cha đẻ của Nguyễn Hoàng.
Khi chạy sang Ai Lao, Nguyễn Kim được vua Xạ Đẩu giúp sức, cho mượn đất để Sầm Châu dựng bản doanh, chiêu mộ quân binh phù Lê diệt Mạc. Được tạo điều kiện thuận lợi, Nguyễn Kim lập tức tìm kiếm con cháu nhà Lê để lo việc Phục hồi. Cuối cùng, ông đã tìm được Hoàng thất Lê Duy Ninh, tôn lên làm vua, hiệu là Lê Trang Tông.
Với sự phò tá hết mình của Nguyễn Kim và quân sĩ, thế lực nhà Lê đã áp đảo họ Mạc. Trước tình thế này, Quan Tổng Trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đã dùng ngụy kế, xin hàng, vờ vịt thuần phục, lấy được lòng của vua Lê và qua mặt Nguyễn Kim. Vị trung thần này sẽ không thể ngờ kẻ bá vai chén tạc chén thù với tôi đã ra tay hạ độc, khiến ông chết trong đau đớn.
Nhạc phụ qua đời, vua Lê Trang Tông không còn người nối dõi, mọi quyền hành của nhà Lê đều nằm gọn trong tay Trịnh Kiểm, đây là mối lo ngại với bá quan văn võ trong triều. Trịnh Kiểm muốn tiếm ngôi nhưng trước lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ta đã đi tìm cháu huyền tôn (cháu 4 đời) là Duy Bang (cháu gọi Lê Thái Tổ bằng chú) để lập làm vua ( Lê Anh Tông). Lúc này, con trai trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông đã được tập ấm là Lãng Xuyên Hầu và được phong tả tướng. Những người thân trong gia đình tín của Nguyễn Kim tính đến kĩ năng chuyển giao quyền hành lại cho Nguyễn Uông… và có lẽ rằng Nguyễn Uông đã trở thành cái gai trong mắt Trịnh Kiểm.
Một hôm, Nguyễn Uông tự nhiên lăn đùng ra chết. Người em út Nguyễn Hoàng linh cảm đây là một âm mưu diệt cỏ tận gốc, ông lo ngại bản thân mình sẽ là đối tượng bị hạ sát tiếp theo của màn kịch chính trị nên đã tìm đến cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm để xin một lời chỉ dạy.
Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột Ngọc Bảo xin anh rể cho vào trấn thủ ở Thuận Hoá (là khu vực từ Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế ngày này). Thuận Hóa vốn là nơi xa xôi, đất đai cằn cỗi, Trịnh Kiểm nhận định rằng Nguyễn Hoàng đi xa sẽ giảm sút một thế lực đối trọng nên tâu vua Lê Anh Tông cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ.
Tháng 10 năm 1558, Nguyễn Hoàng đã cùng gia quyến và những tướng sĩ thân tín thực hiện hành trình dài Nam tiến, mà chính ông cũng không thể biết được rằng cuộc nam tiến lịch sử này đã gây hình thành cơ đồ cho những con cháu ông sau này.
Sau chuỗi ngày dong duổi, đoàn quân Nam tiến nghỉ chân ở cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt). Cũng chính nơi đây, Nguyễn Hoàng đã cho quân binh của tớ đóng trại ở Gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (nay thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).
Mộ của chúa Tiên - Nguyễn Hoàng trong lăng Trường Cơ
Miền đất Thuận Hóa lúc bấy giờ hoang sơ, nguyên bản và nghèo nàn tạo điều kiện cho bọn cướp biển, giặc hoành hành. Không những thế, Nguyễn Hoàng còn phải đối mặt với những lực lượng quân nhà Mạc, Chiêm Thành, Chân Lạp thường xuyên đánh phá. Chinh phục mảnh đất nền này quả là một thử thách lớn với Nguyễn Hoàng.
Thế nhưng, ngày từ lúc mới đặt chân đến đây, Nguyễn Hoàng đã quy tụ được yếu tố “nhân hòa”: Lưu thủ Thuận Hóa – Tống Phướng Trị đã tìm đến để vái chào Nguyễn Hoàng , và dâng lên cho Nguyễn Hoàng map và sổ sách trong xứ, xin được một lòng phò tá. Nhân dân địa phương cũng rất là vui mừng khi hay tin có một vị quan lớn vào trấn thủ xứ sở của tớ, nên đã đón tiếp quan Trấn thủ vô cùng trọng thể. Từ đây, Nguyễn Hoàng được tôn xưng ở ngôi vị Chúa Nguyễn.
Với quyết tâm cải hóa miền đất này, vị chúa Nguyễn đầu tiên đã có những chủ trương rất hợp lý nhờ tài tổ chức của tớ và sự giúp sức của những quan dưới trướng, đặc biệt là Thái phó Nguyễn Ư Dĩ.
Nguyễn Hoàng đã cho dân tự do khai hoang lập hóa. Người nào khai khẩn được bao nhiêu thì được quyền sở hữu đất ấy, và cũng chính nhờ vào chủ trương khuyến khích cùng với sự giúp sức của cơ quan ban ngành sở tại trong việc khai hóa đất đai mà lãnh thổ từ từ được rộng. Năm 1597, Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh đứng vị trí số 1 đội ngũ khoảng chừng 4000 lưu dân vào khai khẩn vùng đất từ đèo Cù Mông (Bắc Phú Yên) đến đèo Cả (Bắc Khánh Hòa). Chuyến khai hoang này hình thành nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ sông Đà Diễn, sông Cái.
Đồng thời, Nguyễn Hoàng cũng chú trọng việc chiêu mộ hiền sĩ. Ông còn giảm sút gang nặng cho dân bằng phương pháp giảm thuế, việc sai dịch cũng khá được hạn chế tối đa, chỉ trừ những trường hợp thực sự cấp bách.
Điều Nguyễn Hoàng lo ngại đã thành sự thực – năm 1578, Chiêm Thành cất quân đến quấy nhiễu.Vâng lệnh chúa, Lương Văn Chánh mang quân tiến đến sông Đà Diễn, Hoa Anh đánh chiếm thành An Nghiệp, là một trong những kinh thành đồ sộ và kiên cố nhất trong lịch sử Chăm Pa.
Năm 1611, Chiêm Thành tiếp tục càn quấy vùng biên giới Hoa Anh. Lần này, chúa Nguyễn cử tướng Văn Phong đi dẹp. Vua Chiêm Thành- Po Nit phải rút quân xuống phía Nam đèo Cả. Kết quả là Hoa Anh trở thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân cửa nước Nam.
Còn một khu vực “nóng” được tương hỗ update vào quỹ lãnh thổ không thể không nhắc tới – quần đảo Hoàng Sa. Lịch sử không ghi chép rõ thời gian, chỉ biết hai gia tướng người Việt gốc Chăm của Tĩnh Công Nguyễn Kim là Vũ Thì An và Vũ Thì Trung đã giúp Nguyễn Hoàng chiếm hữu Bãi Cát Vàng (tên gọi thời đó của Hoàng Sa) – thời điểm hiện nay mới chỉ là một vùng đất vô chủ mà không một nước nào phản đối hay bảo lưu.
Năm 1613, Chúa tiên lâm bệnh nặng, ông cho gọi người con thứ sáu của tớ là Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên từ Quảng Nam về để kế vị và căn dặn:
Nếu Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ cõi về phía nam.
Đất Thuận Quảng này phía bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn, thật là đất của người anh hùng dụng võ. Vậy con phải biết thương yêu dân, rèn luyện binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời.
Ông cũng dặn với những cận thần lúc hấp hối bên giường bệnh:
Ta với những ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, những ông nên cùng lòng giúp sức, cho thành công nghiệp.
Tham Khảo lichsunuocvietnam.com
Giai thoại
Cuộc đào thoát thiết kế xây dựng cơ nghiệp của Chúa Nguyễn Hoàng
Nhận định đúng thời cơ, Nguyễn Hoàng nghe lời Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vào đất Thuận Hóa trú thân, nuôi chí gầy dựng cơ đồ. Ông là người đặt nền tảng cho việc xây dựng giang sơn riêng cho dòng họ mình và Thuận Hóa trở thành đất dựng nghiệp của vương triều nhà Nguyễn (1802 - 1945).
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng
Cuộc di dân mở rộng bờ cõi
Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) hay Nguyễn Thái Tổ, Chúa Tiên, là vị chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho vương triều Nguyễn. Chúa Nguyễn Hoàng quê ở thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ông nội (Nguyễn Hoằng Dụ) và cha ông (Nguyễn Kim) Nguyễn Hoàng đều là những trọng thần của triều đình nhà Hậu Lê.
Năm 1545, Nguyễn Kim, người dân có công thiết kế xây dựng lại nhà Hậu Lê sau khi rơi vào tay nhà Mạc, bị hàng tướng triều Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Trịnh Kiểm, con rể ông được vua Lê phong làm Lượng quốc công, thay Nguyễn Kim nắm giữ binh quyền.
Từ đây, Trịnh Kiểm khởi đầu thực hiện ý đồ tước bỏ dần thế lực của tớ Nguyễn để tập trung quyền hành vào tay họ Trịnh. Trịnh Kiểm giết con trai cả của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông. Trước tình thế đó, Nguyễn Hoàng, con trai thứ của Nguyễn Kim, phải tìm cách thoát khỏi sự ám hại của Trịnh Kiểm.
Nguyễn Hoàng đem chuyện này bàn với cha đỡ đầu là Nguyễn Ư Dĩ và được ông khuyên cáo bệnh về nghỉ ở chốn Thuận Hóa “hiểm trở, kiên cố”. Để tránh sự nghi ngờ của Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng đã nhờ chị là Ngọc Bảo (vợ của Trịnh Kiểm) xin vào trấn thủ Thuận Hóa.
Bên cạnh đó, Nguyễn Hoàng còn cho những người dân đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhận được câu ẩn ý “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân” (nghĩa là một dải Hoành sơn hoàn toàn có thể dung thân được). Đất Thuận Hóa xa xôi, hiểm nghèo.
Hơn nữa, nếu Nguyễn Hoàng vào đó, Trịnh Kiểm hoàn toàn có thể tập trung tiêu diệt nhà Mạc, thu phục kinh đô, dựng cơ đồ nhà Trịnh. Vì vậy, Trịnh Kiểm đã dâng biểu xin vua chỉ định Nguyễn Hoàng vào đó trấn thủ.
Tháng 11/1558, Nguyễn Hoàng được lệnh vào trấn thủ Thuận Hóa với một quyền hạn rộng lớn “phàm mọi việc ở địa phương không kể to nhỏ đều cho tùy tiện xử lý”.
Nguyễn Hoàng ra đi vừa để bảo toàn mạng sống, vừa tính kế phát triển sự nghiệp lâu dài, nên khi rời đất Bắc, ông đã lôi kéo một lực lượng đông đảo gồm có nhiều tướng lĩnh (Văn Nham, Thạch Xuyên, Tiền Trung, Tường Lộc), binh lính (1000 thủy quân), và nhân dân những làng mạc ở huyện Tống Sơn, nghĩa dũng đất Thanh Hóa cùng một số trong những quan lại, binh lính ở Thanh Hóa và Nghệ An.
Khi đoàn quân đi qua Thanh Nghệ Tĩnh, nhiều người hưởng ứng đem cả vợ con theo. Đây đó đó là một cuộc di dân thực sự.
Vào vùng Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng ban đầu đóng ở xã Ái Tử (sau gọi là kho Cây Khế), thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị. Nguyễn Hoàng ngay sau đó đã có những chủ trương hiệu suất cao để phát triển vùng đất của tớ và mở rộng lãnh thổ hơn thế nữa về phía Nam.
Nguyễn Hoàng ngoài tài lãnh đạo còn tồn tại lòng nhân đức nên dân chúng Thuận Hóa rất cảm mến, họ gọi ông là Chúa Tiên tuy nhiên đương thời chỉ có chức Đoan Quốc Công. Ông đã nhẫn nhịn để chờ thời cơ, không manh động với địch thủ đã giết người thân trong gia đình của tớ, lập chí lớn, thiết kế xây dựng cơ nghiệp để lại cho con cháu tương lai.
Chùa Thiên Mụ được Chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng năm 1601.
Năm 1569, khi ra chầu Vua Lê, Nguyễn Hoàng được giao trấn thủ luôn vùng đất Quảng Nam, ảnh hưởng chính trị của ông phủ rộng rộng rãi ra tới Đồng Xuân, Tuy Hòa. Năm Qúy Tỵ 1593, Nguyễn Hoàng đem quân ra Đông Đô yết kiến vua Lê, lần ra Bắc này ông đã giúp Trịnh Tùng đánh dẹp dư đảng họ Mạc. Trong suốt 8 năm, vì lập được nhiều chiến công nên ông lại bị Trịnh Tùng lo ngại, có ý hãm hại, không cho ông về lại Thuận Hóa mà kiếm cớ giữ lại kinh thành.
Năm 1600, một lần nữa Nguyễn Hoàng lấy cớ đi dẹp loạn giong buồm chạy thẳng ra khơi, để con trai thứ 5 và cháu làm con tin, còn ông một mình vào Thuận Hóa tìm đường sống. Từ đó ông vượt đèo Hải Vân vào Quảng Nam, xây Trấn Dinh ở Cần Húc (Duy Xuyên|), cử con trai thứ 6 vào trấn nhậm, Quảng Nam là nơi đất tốt, dân đông, sản vật giàu sang. Từ đấy Nam Bắc phân biệt, hình thức bề ngoài thì làm ra bộ hòa hiếu, nhưng bề trong thì vẫn lo việc phòng bị để chống cự với nhau.
Xác lập thế lực họ Nguyễn
Thế lực của Nguyễn Hoàng ở phía Nam được xác lập khi khám lý phủ Hoài Nhơn (Bình Định) Trần Đức Hòa thuộc mái ấm gia đình có thế lực, nhiều đời vốn là bề tôi nhà Lê tới yết kiến.
Trong cuốn “Phủ biên tạp lục” của Lê Qúy Đôn có đoạn viết về xứ Thuận Quảng dưới cai trị của Nguyễn Hoàng như sau: “Đoan Quận Công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không còn ai dám lừa dối. Cai trị hơn 10 năm, chính vì sự khoan hòa, việc gì rồi cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công minh, răn giữ bản bộ, không cho kẻ hung dữ.
Quan dân hai xứ thân yên tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không còn ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua và bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng nỗ lực, trong cõi đều định cư lạc nghiệp. Hàng năm nộp thuế mà giúp việc quân, việc nước, triều đình cũng khá được nhờ...”.
Năm 1604, Nguyễn Hoàng chia đặt lại những đơn vị hành chính thuộc xứ Thuận Hóa, đổi phủ Tiên Bình thành phủ Quảng Bình (phía Bắc tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình ngày này), đổi phủ Tư Ngãi thành phủ Tỉnh Quảng Ngãi…
Nguyễn Hoàng cũng lấy giáo lý phật giáo để cai trị, thuần tính quân dân dưới quyền. Ông đã cho sửa chữa, xây dựng nhiều ngôi chùa từ Quảng Nam ra Quảng Bình. Trong số đó nổi bật nhất là việc Nguyễn Hoàng cho xây dựng chùa Thiên Mụ ở Huế vào năm 1601.
Về ngôi chùa Thiên Mụ nổi tiếng ở Huế, sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 1) có viết: “Bấy giờ, Chúa (chỉ Nguyễn Hoàng) đi dạo xem hình thế núi sông, thấy trên cánh đồng của xã Hà Khê thuộc huyện Hương Trà (nay là ngoại ô thành phố Huế), giữa khu đất nền phẳng phiu nổi lên một gò cao, trông tựa như hình đầu rồng đang ngoái nhìn lại, phía trước thì có sông lớn (sông Hương), phía sau có hồ rộng, cảnh trí rất đẹp đẽ.
Chúa nhân đó mới hỏi chuyện người địa phương, ai cũng nói gò đất đấy rất thiêng. Tục truyền: Xưa, đang đêm bỗng có người nhìn thấy một bà già mặc áo đỏ, quần xanh, ngồi trên đỉnh gò và nói: Sẽ có vị chân chúa đến đây xây chùa để tụ khí thiêng, giữ long mạch.
Nói rồi bà già ấy biến mất. Bấy giờ, nhân đấy mới gọi gò đất kia là gò Thiên Mụ. Chúa cũng cho là gò đất đấy có linh khí, bèn cho cất chùa, gọi là chùa Thiên Mụ”.
Ngoài việc chăm sóc đời sống nhân dân, Nguyễn Hoàng đã tổ chức được đội quân hùng mạnh. Nhất là đội thủy binh, năm 1559 khi mới định cư gần đầy năm, tàu Tây Ban Nha đã đến gây rối ở vùng biển nước ta, chúng đã bị lực lượng phòng thủ biển cảnh cáo.
Năm 1585, tàu phương Tây lại đến quấy nhiễu, Sách Đại Nam thực lục chép: “Năm Ất Dậu, bấy giờ có giặc nước Tây dương hiệu là Hiển Qúy đi 5 chiếc thuyền lớn đến đậu ở Cửa Việt (Quảng Trị) để cướp bóc ven biển. Chúa sai hoàng tử thứ sáu lĩnh hơn 19 chiếc thuyền tiến thẳng cửa biển, Hiển Qúy sợ chạy. Từ đó giặc biển im hơi”.
Năm 1611, quân Chiêm Thành vượt đèo Cù Mông xâm chiếm biên giới, Nguyễn Hoàng sai quân đánh đuổi và lập thêm phủ Phú Yên, mở rộng xứ Quảng Nam tới đèo Cả. Đương lúc cai trị, Chúa Nguyễn Hoàng rất quan tâm tới thương mại. Chỉ trong mấy thập niên, ông đã biến hóa Đàng Trong trở thành xứ giàu sang và đủ mạnh để hoàn toàn có thể duy trì được nền độc lập.
Năm 1613, biết mình không thể sống lâu hơn, Nguyễn Hoàng cho triệu công tử thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên đang trấn thủ Quảng Nam ra. Ông dặn dò những cận thần rồi cầm tay Phúc Nguyên nói: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; anh em trước hết phải thân yêu nhau. Con phải giữ được lời dặn đó thì ta không ân hận gì”.
Chúa lại nói: “Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và sông Gianh hiểm trở phía Nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh chống chọi với Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời…”.
Các vị Đế, Vương hậu duệ của ông tiếp tục chủ trương mở mang này và đã chống nhau với họ Trịnh bất phân thắng bại trong nhiều năm. Cuối cùng họ Nguyễn đã và đang hoàn thành xong việc thống nhất đất nước từ Nam đến Bắc ở đất liền, cùng với độc lập lãnh thổ biển đảo ở biển Đông, khởi đầu từ niên hiệu Gia Long (cháu đời thứ 10 của Nguyễn Hoàng).
Sau khi qua đời, ban đầu mộ của Nguyễn Hoàng táng ở vùng núi Thạch Hãn, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong (nay thuộc huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị), về sau được cải táng lăng mộ chuyển về núi La Khê tức Khải Vận Sơn (nay thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế).
Lúc đầu Chúa Nguyễn Hoàng được thờ tại chùa Long Phước (nay thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị), về sau được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên phối thờ cùng Tĩnh Công Nguyễn Kim tại chùa Thiên Mụ ở Phú Xuân (nay là Thành phố Huế).
Năm Giáp Tý, niên hiệu Gia Long năm thứ ba, 1804, vua Gia Long (1780 - 1820) cho dựng Thái Miếu rộng mười ba gian để thờ những Chúa Nguyễn và những công thần đời trước, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cùng Hoàng hậu được thờ ở án ở chính giữa. Vua Gia Long suy tôn cho Nguyễn Hoàng miếu hiệu là Thái Tổ.
Báo Pháp Luật Việt Nam
[Bản in]