Kinh Nghiệm về Cái ngông trong thơ Hồ Xuân Hương 2022
Họ tên bố (mẹ) đang tìm kiếm từ khóa Cái ngông trong thơ Hồ Xuân Hương được Update vào lúc : 2022-06-08 18:26:03 . Với phương châm chia sẻ Thủ Thuật Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi Read Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ? – Lại đây cho chị dạy làm thơ!” Thơ Hồ Xuân Hương không riêng gì có có cái “ngông” và những bài tự tình trách phận một cách kín kẽ, đặc sắc. Thơ Hồ Xuân hương còn là một những bài vịnh, bài thơ rất… tục và táo bạo. Người đương thời gọi thơ Xuân Hương khởi sắc “thanh thanh tục tục” đặc biệt mà không còn ai đã có được. Là một hiện tượng kỳ lạ, không riêng gì có với thơ đương thời mà còn cho tới ngày này, những áng thơ của Hồ Xuân Hương vẫn chưa bao giờ trôi vào quên lãng.
Và ngày hôm nay, sau những bài thơ hay nhất của Hồ Xuân Hương, tôi xin gửi đến những bạn chùm thơ tổng hợp 10 bài thơ “thanh thanh tục tục” nổi tiếng nhất của bà. Đây là những bài thơ rất nhiều người đọc xong phải thẹn thùng đỏ mặt. Mời những bạn cùng xem và thưởng thức – những áng thơ thanh thanh tục tục hay nhất của Hồ Xuân Hương:
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau Con cò mấp máy suốt đêm thâu Hai chân đạp xuống năng năng nhắc Một suốt đâm ngang thích thích mau Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả Ngắn dài khuôn khổ vẫn như nhau Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa Duyên này tác hợp tự ngàn xưa Chành ra ba góc da không đủ Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướngPhì phạch trong lòng đã sướng chưa
Thân em như quả mít trên cây Da nó xù xì múi nó dày Quân tử có yêu xin đóng cọc
Đừng mân mó nữa nhựa ra tay
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi Quân tử có thương thì bóc yếm
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc, Ðốt đèn lên đánh cuộc cờ người. Hẹn rằng đấu trí mà chơi, Cấm ngoại thuỷ không còn ai được biết. Nào tướng sĩ dàn ra cho hết, Ðể đôi ta quyết liệt một phen. Quân thiếp trắng, quân chàng đen, Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa. Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa, Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên. Hai xe hà, chàng gác hai bên, Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ. Chàng lừa thiếp đương khi bất ý, Ðem tốt đầu dú dí vô cung, Thiếp đang mắc nước xe lồng, Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu. Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu, Thua thì thua quyết níu lấy con. Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
Đang cơn nắng cực chửa mưa tè, Rủ chị em ra tát nước khe. Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm, Lênh đênh một ruộng bốn bờ be. Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa, Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve. Mải việc làm ăn quên cả mệt,
Dạng hang một lúc đã đầy phè.
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng, Người thì lên đánh kẻ ngồi trông, Trai co gối hạc khom khom cật Gái uốn sống lưng ong ngửa ngửa lòng. Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Chơi xuân đã biết xuân chăng tá.
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
Chú lái kia ơi, biết chú rồi, Qua sông rồi lại đấm ngay bòi! Chèo ghe vừa khỏi dòng sông ngược, Đấm cọc ngay vào ngấn nước xuôi. Mới biết lên bờ đà vỗ đít, Nào khi giữa khúc đã co vòi. Chuyến đò nên nghĩa sao không nhớ?
Sang nữa hay là một chuyến thôi?
Trời đất sinh ra đá một chòm Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hom Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn Luồng gió thông reo vỗ phập phòm Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm Con đường vô ngạn tối om om Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông Giếng tót thanh thơi rất lạ lùng Cầu trắng phau phau hai ván ghép Nước trong leo lẻo một dòng thông Cỏ gà lún phún leo quanh mép Cá diếc le te lội giữa dòng Giếng ấy thanh tân ai đó đã biết
Đố ai dám thả nạ rồng rồng
Thơ Hồ Xuân Hương đa số là truyền tụng nên có nhiều những dị bản, bản chép rất khác nhau, những bài thơ của Hồ Xuân Hương trong chùm thơ này nếu có khác với những gì bạn biết thì cũng là vấn đề thông thường. Thơ Hồ Xuân Hương hay, nhưng cái “thanh thanh tục tục” đó đã khiến nhiều người khi đọc ra phải đỏ mặt!
Và vừa rồi là 10 bài thơ hay và nổi tiếng nhất mang sắc nét thanh thanh tục tục táo bạo của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã để lại cho hậu thế, kỳ vọng rằng những bạn cũng yêu mến những bài thơ ấy. Còn rất nhiều những bài thơ hay và chùm thơ hay khác trong những phân mục thơ trên OCuaSo.Com, đừng quên ghé thăm thường xuyên để update những bài thơ tình hay và thơ tình buồn lãng mạn nhất, chúc những bạn vui vẻ bên những vần thơ!
Xem thêm Thơ Hồ Xuân Hương hoặc Chùm Thơ Nổi Tiếng và Những Chùm Thơ Hay Của Hồ Xuân Hương cùng Thơ Tình Sáng Tác Mới
Bài viết liên quan:
(Toquoc)- Phác thảo về cái ngông
Khi người ta phác hoạ một Nguyễn Tuân thì phải là cái mũi khoằm, Xuân Diệu là mái tóc bồng bềnh, Kim Lân là cái má hóp thì nhìn vào bức vẽ ấy ta mới gọi ra được Vang bóng thuở nào, Biển, hay Vợ nhặt... vậy còn chàng trai Đồng Đức Bốn, hay nhà thơ Nguyễn Duy… thì phải vẽ thế nào (?).
Không ai phủ nhận một điều rằng những nhà văn có tài năng dù công khai minh bạch thể hiện hay ngấm ngầm tuyên ngôn đều có một chút ít tự hào và vững tin ở ngòi bút của tớ. Bởi nếu muốn đi xa được anh phải biết mình có lực thật sự hay là không và tin ở tay lái của tớ như người thuỷ thủ ra khơi. Cái ngông của nhà văn nào ở đầu cuối cũng khá được họ phát biểu thành tuyên ngôn. Nguyễn Công Trứ là: Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: Bởi ông hay quá, ông không đỗ/ Không đỗ, ông càng tốt bộ ngông. Dù kẻ thế này, người thế khác thì suy cho cùng họ đều là vì "sinh bất phùng thời" và muốn tự thể hiện cái tư chất của tớ. Dù đôi lúc họ có hơi ngậm ngùi về thân phận của tớ nhưng vẫn là cái ngông của bậc đại nhân. Bởi thế dù có nhập vào "cây thông đứng giữa trời mà reo" - một biến thể của người quân tử, hay cách nói ngạo nghễ của Tản Đà thì đều là tự mình nói lên mình. Trong khi đó ở Đồng Đức Bốn, cái chất ngông của ông đã làm dư luận xôn xao từ lâu nhưng để nắm bắt thì không hề đơn giản. Rất nhiều người đã lầm cái ngông ấy với cái "tự ái vặt" trong thơ ông. Cái ngông cũng là một dung hoà đối cực hưng phấn và ức chế của tâm lý nhưng sang trọng và đàng hoàng hơn nhiều. Đã có lần "suýt nữa" ông nói về cái ngông ấy: Hiểu tôi là ngọn núi cao/ Thương tôi có một ngôi sao 5 cánh cuối trời. Rất may đó chỉ là hiểu và thương chứ không phải là hiểu và khen hay nể sợ, đáng gờm gì đó... thì tất cả chúng ta lại sở hữu thêm một sự xoàng xĩnh nữa rồi. Một con người luôn ám ảnh về cái tôi mồ côi của tớ như vậy bao giờ cũng thể hiện rất rất kín kẽ và tinh tế trong sự phát ngôn của tớ. Thiết nghĩ người thơ ồn ào mà sâu lắng ấy không phát biểu thô thiển như vậy. Kẻ lĩnh hội được lục bát không thể là phường phàm phu, tục tử được. Đó phải là: Người đời không hái được ta/ Thì em đừng mộng ta là tình nhân. Kẻ đó phải là ai để hoàn toàn có thể lọt cả "lưới đời" bủa vây và lưới tình mơn trớn (ải mỹ nhân). Hoặc ta lại thấy bóng hình ấy trong bến bờ thơ mộng: thảo dân. "Xử" và "tàng" thực chất vẫn là một dạng tồn tại đặc biệt của cái tôi hành đạo. Kể đến cả bậc tiền nhân Đào Tiềm về ở ẩn từ rất sớm thì vẫn tạo ra cả một khối mạng lưới hệ thống hình tượng để soi chiếu được cho phép hành xử của những nhà Nho sau này từ xuân, lan, thu, cúc. Chỉ có những nhà thơ lục bát tân tiến này thì về với dân mới là dân thật. Bởi: dân là toàn bích, dân là toàn tri chăng. Bởi thế mới đã có được đôi mắt của thảo dân, đôi mắt có con ngươi vàng nhìn nét trẻ đẹp huyền diệu mà bản mộc trong khi mà người ta vẫn mơ mơ hồ hồ. Thi nhân truyền thống ngông ngạo muốn người đời nhìn ra mình, còn họ lại nhìn ra cuộc sống: Khói thuốc lá đường bên trời/ Rượu trong cất ở mắt người sang nhau - (Đồng Đức Bốn), Xin nghe anh nói cực nghiêm/ Linh hồn cát bụi ở miền trong veo - (Nguyễn Duy).
Nếu như cái ngông của những bậc tiền nhân là hiện thân của con người quân tử được ẩn, được soi chiếu trong những hình tượng của Nho giáo thì cái ngông của những nhà thơ này phải tìm cho mình một thứ gì đó để mà cư ngụ, để tránh tình trạng nói nhiều để không trở thành dở ông, dở thằng ngay giữa thi đàn. Vậy là họ phải tìm cho mình những hình tượng riêng: Nguyễn Duy nhận là thảo dân (Chu Văn Sơn) nhưng là thảo dân tân tiến. Thảo dân tài năng và nhạy cảm với thế sự. Phạm Công Trứ là cỏ may nhưng là cỏ may mọc trên hoa gấm thị thành, không đến nỗi thành tinh nhưng lắng nghe được mọi chuyện. Còn với Bốn, ông lúng túng để tìm một hoá thân nhưng ở đầu cuối thì phải là lục bát, nhưng đó là một lục bát tân tiến. Lục bát có mắt thần nhìn ra lẽ đời, lắng tai nghe thấu chuyện đời. Lâu nay văn đàn đã vắng cái ngất ngưởng của thi nhân, nhiều người ngỡ là không hề cái ngông nữa hoặc thi thoảng nghe thấy vài tiếng hô cho đó là cái ngông không bằng ngày trước. Thế nhưng họ đã quên rằng cái "bụi" của Duy, cái "gai" của Bốn, cái dằm dặm của "cỏ may" mọc trên nhung lụa của Trứ chẳng phải là cái ngông mới sao.
Thi nhân xưa lấy thơ viết về cái ngông, thi nhân nay ngông vì có thơ, có thơ là có báu vật, có thơ để nhận diện cuộc sống. Có thơ để được nói ngọng, để hiểu thấu lẽ cuộc sống. Phải chăng họ tồn tại bằng chính lương tri của tớ khi cái lương tri ấy và thơ nhập vào một. Chứ họ không hề coi thơ là phương tiện nữa. Cái ngông đã nhập vào cái hoá thân của tớ. Có thể diễn giải cái ngông ấy thế này: Mình ngông mình được làm mình. Riêng với Bốn, tôi tồn tại bởi tôi là lục bát. Cái ngông của Bốn không phải từ quan phương tìm đến dân gian để tạo ra một phương thức tồn tại đặc biệt mà ông và những nhà thơ cùng thời từ dân gian sở hữu độc giả bằng cái vạn đại, vô danh nhưng vô giá của tớ. Đứng từ cỏ dại, bụi bặm bụi bờ để luận ra, nhìn ra thế giới: Địa cầu mải miết suy tư/ cho râu tóc cỏ rối bù trong đêm (Nguyễn Duy). Từ dân dã họ tiến vào sở hữu trung tâm, tạo ra chất dân gian tân tiến thông qua việc dùng hình ảnh, tích dân gian, từ ngữ, cách ví von làm nghiêm trọng hoá một số trong những vấn đề nhưng vẫn giữ được vẻ bông phèng, họ luôn nhắc nhở với tất cả chúng ta rằng họ vẫn đang phát ngôn những lời ấy từ cửa miệng bông phèng của tớ. Với Nguyễn Duy đó là những: ngọng nghẹo, tỉnh tình tinh, xỉnh xình xinh... để nhắc lại tư thế của tớ: Ngứa nghề hát ngọng nghẹo thôi; Đàn kêu tinh tỉnh tình tinh (Xẩm ngọng); Phàm trần bớt chút lung linh/ những em bớt xỉnh xình xinh mấy phần (Kiêng); Anh nhét tấm huân chương vào hộc tủ/ dửng dừng dưng với mọi vui mừng (Từng trải). Với Phạm Công Trứ: là cái tôi cù lần và em đa điệu xen vào những nét "nghiêm trọng ấy". Người ta "duy vật" khắp nơi/ Em thì "duy lý", còn tôi "duy tình" (Duy). Còn với Đồng Đức Bốn, ông không đã có được cái cười ngạo nghễ mà vẫn làm như không còn gì xẩy ra theo kiểu tỉnh tình tinh như hai tác giả kia. Ông không phải hình ảnh của thi nhân ôm cây đàn mà là cây đàn làm ra thi nhân. Nếu có những "trầm trọng hoá" cũng khá được ông lý giải bằng một lối đi quen thuộc theo kiểu ca dao, thành ngữ: Chuông chùa tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò. Với Bốn, ông không dùng thuật ngữ tân tiến để nêu ra những vấn đề về sự ngang trái, eo le của cuộc sống ở phần đề (câu 6) và đồng thời lại thuyết (ở câu 8) cũng bằng những phương pháp quen thuộc theo kiểu như vậy: Trăm năm tưởng gỗ hoá trầm/ Nào ngờ lại đá lặng câm đứng chờ; Trời xanh mây cũng đầy rêu/ Trên hoa áo những vương triều mủn ra; Chân lý không là đường cong/ Mà sao cứ phải lội vòng thế kia; Muốn tìm đến với ban mai/ Phải qua những trốn đền đài hư vô... Nếu tất cả chúng ta bỏ qua những cụm từ cố định và thắt chặt mang phong vị dân gian như: gỗ hoá trầm, lội vòng... tuy đã mang ý nghĩa tân tiến nhưng phần nào đã mòn và cũ thì những: tưởng, nào ngờ, cũng, mủn ra, muốn tìm, phải qua... là những từ ngữ gợi sự xác định chắc như đinh và quyết liệt. Thơ Bốn không giầu chữ, ông không biết rộng và đi nhiều theo cái kiểu cái tâm thảo dân nhưng cái tầm nhiều chữ để nói hay và nói sắc về mọi thứ. Trong thơ ông chỉ là người "lẩy" lục bát cục mịch, ít nói nhưng luôn nhận rõ trắng - đen, trân - nguỵ. Chính điều ấy tạo nên một nghịch lý cho những người dân đọc khi tiếp nhận đó là: Thấy thơ Bốn rất ít từ mới, rất mòn và cũ nhưng lại đầy ắp chất dân gian tân tiến. Cái ngông cũ là cái vỏ che đậy cái yếu đuối, cái ngông mới mượn cái vỏ nhẹ nhàng, mỏng dính mảnh, lông bông, lang bang thiếu qui chuẩn để đưa ra cái lập luận kiên định, chắc như đinh đóng cột của tớ.
Điệu ghẹo với chất ngông
Chất ngông thể hiện bằng giọng điệu: Với những nhà thơ quá trình trước, chất ngông thường được thể hiện thông qua hình tượng (Nguyễn Công Trứ qua hình tượng cây thông, bậc quân tử, đại nhân. Tản Đà qua hình tượng núi Tản, sông Đà, kẻ hầu văn nhà trời…). Với những nhà thơ lục bát mới chất ngông được thể hiện qua giọng diệu là đa phần: Cùng là là một kiếp thi nhân/ Kẻ men lục bát người trần tự do; Trên đò những cụ ông cụ bà tụng kinh/ Chúng mình trẻ quá chúng mình “tụng” nhau (Phạm Công Trứ). Với Nguyễn Duy: Đừng chê anh khoái bụi đời/ bụi dân số đấy bụi người đấy em; Ai sinh ra thói tình tang/ Để ai hoá gió lang bang quên nhà. Với những nhà thơ trung đại, chất ngông ấy đa phần được thể hiện trong lục bát điệu ngâm và những tác giả sau này là lục bát điệu nói với những điệu than. Nhưng đến quá trình này, cùng với sự đổi mới thi pháp của văn học tân tiến (ra mắt từ đầu thế kỉ XX) chất ngông có thêm điệu ghẹo. Trong cuộc giao duyên chữ nghĩa ấy bản lĩnh người tình được thể hiện chất ngang tàng trong sự đắm đuối, lại vừa thể uyển chuyển, linh hoạt trong những thử thách của tình yêu: Biết rồi !... vai cứ kề vai/ Kệ cho mấp mé cả hai mạn xuồng… (Nguyễn Duy). Cũng với xu hướng ấy Đồng Đức Bốn dường như cũng tìm cho mình một cách thể hiện giọng điệu của tớ một chất ngông được hoà quyện trong điệu ghẹo mới: Cánh hoa sắc một lưỡi dao/ Vì yêu tôi cứ cầm vào như không; Khổ mà tôi vẫn muốn yêu/ Đau mà tôi chẳng đặt điều cho ai; Trẻ thì đất động trời sôi/ Già thì mơn mởn cái hồi đương tơ; Nói gì thì kệ người ta/ Không em phố chẳng còn là một phố đâu… Đôi lúc còn thêm vào đó cả mầu sắc lịch sử thuở nào nữa: Nếu không trả được bằng tiền/ Tôi lấy trăng liềm làm bím tóc cho; Rút trăng buộc lại con đò/ Thu lời em hát chỉ cho riêng mình.
“Ngông” là một bản lĩnh nên phải có trong thơ, “ngông” trong sáng tạo đó đó là niềm tin ở nội lực, ở kĩ năng thấu thị, nhận diện sự vật. Bởi thế không thật lời khi nói thơ còn “ngông” tức là còn những điều lí thú để ta cảm nhận.
Phương Mai