Hướng Dẫn Câu chuyện thanh xuân bi hài ss1 - Lớp.VN

Mẹo Hướng dẫn Câu chuyện thanh xuân bi hài ss1 Chi Tiết

Lê Hữu Kông đang tìm kiếm từ khóa Câu chuyện thanh xuân bi hài ss1 được Cập Nhật vào lúc : 2022-06-09 05:14:05 . Với phương châm chia sẻ Bí quyết Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết Mới Nhất. Nếu sau khi đọc Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Admin lý giải và hướng dẫn lại nha.

Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm (Nhật: やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。, Hepburn: Yahari ore no seishun rabukome wa machigatteiru.?) còn được nghe biết với tên gọi OreGairu (俺ガイル, OreGairu?) và Hamachi (はまち, Hamachi?)[2] là loạt light novel do Watari Wataru (渡 (わたり) 航 (わたる), Watari Wataru?) sáng tác và Ponkan⑧ minh hoạ.[3] Được Shogakukan xuất bản dưới ấn hiệu Gagaga Bunko Tính từ lúc ngày 18 tháng 3 năm 2011 cho tới ngày 19 tháng 11 năm 2022, khi bộ truyện chính thức khép lại ở tập thứ 14. Bộ truyện đã được Thaihabooks mua bản quyền tại Việt Nam và phát hành dưới ấn hiệu Hikari Light Novel.

Nội dung chính
    Mục lụcNội dungSửa đổiNhân vậtSửa đổiCâu lạc bộ tình nguyệnSửa đổiLớp 2-FSửa đổiCác nhân vật khácSửa đổiCác tập light novelSửa đổiTruyền thôngSửa đổiAnimeSửa đổiMangaSửa đổiDrama CDSửa đổiTrò chơi điện tử (Video games)Sửa đổiĐón nhậnSửa đổiTham khảoSửa đổiLiên kết ngoàiSửa đổiVideo liên quan
Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm

Bìa của tập light novel đầu tiên tại Việt Nam, có sự tham gia của Hikigaya Hachiman và Yukinoshita Yukino

やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。
(Yahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru.)Thể loạiHài lãng mạn, slice of life, chính kịch[1]Light novelTác giảWatari WataruMinh họaPonkan⑧Nhà xuất bảnShogakukanNhà xuất bản tiếng ViệtThaihabooks - Hikari Light NovelNhà xuất bản khác

NA

Yen Press

Đối tượngNam giớiẤn hiệuGagaga BunkoĐăngtải18 tháng 3, 2011 – 19 tháng 11, 2019Số tập14 + 4 tập ngoại truyện (list tập)MangaYahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. -Monologue-Tác giảKazuki RechiNhà xuất bảnSquare EnixĐối tượngSeinenTạp chíBig GanganĐăngtải25 tháng 9, 2012 – naySố tập20 (list tập)MangaYahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. @comicTác giảIo NaomichiNhà xuất bảnShogakukanNhà xuất bản tiếng ViệtThaihabooksNhà xuất bản khác

NA

Yen Press

Đối tượngSeinenTạp chíMonthly Sunday Gene-XĐăngtải19 tháng 12, 2012 – naySố tập20 (list tập)MangaYahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. Manga AnthologyTác giảNhiều tác giảNhà xuất bảnIchijinshaĐối tượngSeinenẤn hiệuDNA Media ComicsĐăngtải25 tháng 5, 2013 – 28 tháng 1, 2016Số tập4 (list tập)MangaYahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. GX Comic AnthologyTác giảNhiều tác giảNhà xuất bảnShogakukanĐối tượngSeinenẤn hiệuSunday GX ComicsĐăngtải17 tháng 7, 2020Số tập1Anime truyền hìnhYahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru.Đạo diễnYoshimura AiKịch bảnSuga ShōtarōÂm nhạcmonacaHãng phimBrain's BaseCấp phép

AUS

Madman Entertainment

NA

Sentai Filmworks

SEA

Medialink

UK

Animatsu Entertainment

Kênh gốcTBS, MBS, CBC, BS-TBSPhát sóng 5 tháng 4, 2013 – 28 tháng 6, 2013Số tập13 + OVA (list tập)Anime truyền hìnhYahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. Zoku (mùa 2)Đạo diễnOikawa KeiKịch bảnSuga ShōtarōÂm nhạcmonacaHãng phimFeelCấp phép

AUS

Madman Entertainment

NA

Sentai Filmworks

SEA

Medialink

UK

Animatsu Entertainment

Kênh gốcTBS, MBS, CBC, TUT, BS-TBSPhát sóng 3 tháng 4, 2015 – 26 tháng 6, 2015Số tập13 + OVA (list tập)Anime truyền hìnhYahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. Kan (mùa 3)Đạo diễnOikawa KeiKịch bảnŌchi KeiichirōÂm nhạc

    Ishihama Kakeru (Monaca)Takahashi Kuniyuki (Monaca)
Hãng phimFeelCấp phépSentai Filmworks

SEA

Medialink

Kênh gốcJNN (TBS, MBS, CBC, BS-TBS)Phát sóng 9 tháng 7, 2022 – 24 tháng 9, 2020Số tập12 (list tập)Trò chơi điện tửYahari Game demo Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru.Pháttriển5pb.Pháthành5pb.Thể loạiVisual novelHệ máyPlayStation Vita, PlayStation 4Ngày phát hànhPlayStation Vita
    JP 19 tháng 9, 2013

PlayStation 4

    JP 26 tháng 10, 2022
Trò chơi điện tửYahari Game demo Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. ZokuPháttriển5pb.Pháthành5pb.Thể loạiVisual novelHệ máyPlayStation Vita, PlayStation 4Ngày phát hànhPlayStation Vita
    JP 27 tháng 10, 2022

PlayStation 4

    JP 26 tháng 10, 2022
Cổng thông tin Anime và manga

Bộ truyện có hai bản manga chuyển thể, một phần manga spin-off cùng năm tập manga hợp tuyển và ba mùa anime truyền hình chuyển. Mùa anime đầu tiên gồm 13 tập, phát sóng từ ngày 5 tháng 4 cho tới ngày 28 tháng 6 năm 2013. Tiếp đến là mùa thứ hai với 13 tập, phát sóng từ ngày 3 tháng 4 cho tới ngày 26 tháng 6 năm 2015. Cuối cùng là mùa thứ ba với 12 tập, phát sóng từ ngày 9 tháng 7 cho tới ngày 24 tháng 9 năm 2022. Phiên bản manga chuyển thể đã được Thaihabooks mua bản quyền và dự kiến phát hành trong năm 2022.[4]

Một phần trò chơi visual novel với tựa "Yahari Game demo Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru." được 5pb phát hành cho hệ máy PlayStation Vita vào ngày 19 tháng 9 năm 2013. Phần trò chơi thứ hai cũng khá được 5pb phát hành cho hệ máy PlayStation Vita vào ngày 27 tháng 10 năm 2022.[5][6] Cả hai phần trò chơi đã được phát hành phiên bản dành riêng cho hệ máy PlayStation 4 vào ngày 26 tháng 10 năm 2022.

Mục lục

    1 Nội dung 2 Nhân vật
      2.1 Câu lạc bộ tình nguyện 2.2 Lớp 2-F 2.3 Các nhân vật khác
    3 Các tập light novel
      3.1 Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm 3.2 Anthology
    4 Truyền thông
      4.1 Anime 4.2 Manga
        4.2.1 Oregairu Monologue 4.2.2 Oregairu @comic 4.2.3 Oregairu 4-koma 4.2.4 Oregairu Manga Anthology
      4.3 Drama CD 4.4 Trò chơi điện tử (Video games)
    5 Đón nhận 6 Tham khảo 7 Liên kết ngoài

Nội dungSửa đổi

Câu chuyện xoay quanh một học viên cao trung với tâm lý chống đối xã hội tên là Hikigaya Hachiman. Cậu ta có một chiếc nhìn đầy méo mó về môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường, do đó cậu không còn bất kì người bạn cũng như một cô bạn gái nào. Khi Hachiman thấy những người dân khác hào hứng nói chuyện về tuổi trẻ, cậu lẩm bẩm: "Một lũ gian dối". Khi cậu được hỏi về ước mơ cho tương lai của tớ, Hachiman trả lời: "Không phải thao tác". Giáo viên môn Văn Học cổ xưa của cậu, Hiratsuka Shizuka bắt Hachiman phải tham gia vào "Câu lạc bộ tình nguyện" (Service Club), nơi cậu vô tình gặp Yukinoshita Yukino - cô nàng xinh đẹp nhất trường. Sau khi cả hai người nhận được yêu cầu giúp Yuigahama Yui tự làm bánh bích quy của tớ và sau đó chính cô cũng gia nhập CLB. Sinh hoạt CLB cùng với hai cô nàng xinh đẹp, "Đúng rồi, chuyện tình thanh xuân phải là như vậy này chứ!"- cậu tự nhủ vậy. Tuy rằng không còn tươi đẹp đến mức ấy, nhưng Hachiman đã trải qua rất nhiều chuyện ở trong lẫn ngoài CLB, từ từ có nhiều kỷ niệm đẹp với Yukinoshita và Yuigahama. Cũng vì vậy, quan niệm sống của cậu đã thay đổi.

Nhân vậtSửa đổi

Câu lạc bộ tình nguyệnSửa đổi

Ba nhân vật chính trong bộ truyện đều là thành viên của Câu lạc bộ Tình nguyện của trường trung học Sōbu, được điều hành bởi Yukinoshita Yukino.

Hikigaya Hachiman (比企谷 (ひきがや) 八幡 (はちまん), Hikigaya Hachiman?)

Lồng tiếng bởi: Eguchi Takuya Hachiman là học viên lớp 2-F của Cao trung Sōbu, cậu là một kẻ cô độc có cái nhìn đầy méo mó về môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường. Cậu tin rằng tuổi trẻ là một ảo ảnh được tạo ra bởi những kẻ đạo đức giả, dành riêng cho những kẻ đạo đức giả. Câu chuyện trong Oregairu được kể qua tầm nhìn của cậu.

Yukinoshita Yukino (雪 (ゆき)ノ下 (した) 雪乃 (ゆきの), Yukinoshita Yukino?)

Lồng tiếng bởi: Hayami Saori Yukino là học viên của lớp 2-J và là quản trị của Câu lạc bộ Tình nguyện. Cô là thành viên duy nhất cho tới lúc Hachiman tham gia. Yukino là con gái út của một mái ấm gia đình giàu sang, cô vô cùng tài giỏi, thông minh, xinh đẹp và cũng không kém phần lạnh lùng. Cũng chính bởi sự xuất chúng của tớ mà cô thường bị mọi người xa lánh.

Yuigahama Yui (由比 (ゆい)ヶ (が)浜 (はま) 結衣 (ゆい), Yuigahama Yui?)

Lồng tiếng bởi: Toyama Nao Yui là bạn cùng lớp của Hachima và là thành viên của nhóm Hayato. Cô là một trong cô nàng vui vẻ, hướng ngoại, cô trở thành "người tiêu dùng" đầu tiên của Câu lạc bộ Tình nguyện, yêu cầu họ giúp cô nướng bánh cho "một người nào đó". Cô đã giữ tình cảm với Hachiman Tính từ lúc lúc cậu cứu chú chó của tớ vào ngày đầu tiên ở trường trung học. Cô là sợi dây link không thể thiếu của 3 người trong câu lạc bộ.

Lớp 2-FSửa đổi

Totsuka Saika (戸塚 (とつか) 彩加 (さいか), Totsuka Saika?)

Lồng tiếng bởi: Komatsu Mikako Totsuka là hội trưởng CLB tennis, cũng như thể bạn cùng lớp với Hachiman. Cậu được những bạn cùng lớp gọi là "Hoàng tử". Cậu có ngoại hình giống "gái" nên nhiều lần khiến Hachiman phải đỏ mặt, quên mất cậu là trai. Totsuka có tính cách e thẹn, hiền lành và dễ thương khiến biết bao chàng trai bị mê hoặc và nhầm lẫn về giới tính của câu. Totsuka rất quý mến Hachiman.

Hayama Hayato (葉山 (はやま) 隼人 (はやと), Hayama Hayato?)

Lồng tiếng bởi: Kondō Takashi Hayato là bạn cùng lớp với Hachiman, vô cùng nổi bật trong lớp. Ngoại hình ưa nhìn, tính cách chan hòa, thu hút cả nam lẫn nữ. Có thể nói, Hayama là một Riajuu đúng thương hiệu. Anh ấy rất tử tế với những người dân khác, kể cả Hachiman, và thường giúp sức mọi khác. Anh và Yukino có một số trong những căng thẳng mệt mỏi trong quan hệ của tớ, xuất phát từ một sự cố trong quá khứ. Mặc dù nổi tiếng và thành công, anh cảm thấy thua kém nhiều so với Hachiman.

Miura Yumiko (三浦 (みうた) 優美子 (ゆみこ), Miura Yumiko?)

Lồng tiếng bởi: Inoue Marina Yumiko là một cô nàng nổi tiếng từ lớp 2-F với tính cách hào hoa. Cô là nhân vật nữ chính trong đội quân của Hayato. Do sự nổi tiếng của tớ, cô không gặp trở ngại vất vả trong việc kết bạn, và do đó không còn chút hiểu biết nào đối với những người dân gặp rắc rối xã hội. Cô gạt đi bất kể điều gì cô không hiểu vì "vô nghĩa".

Ebina Hina (海老名 (えびな) 姫菜 (ひな), Ebina Hina?)

Lồng tiếng bởi: Sasaki Nozomi Hina là một fujoshi từ lớp 2-F, người trong nhóm của Hayato. Cô có thói quen giảng về sở thích của tớ bất kể lúc nào cô cảm thấy phấn khích, và do đó thường bị những bạn nam cùng lớp tránh né. Hina biết về cảm xúc của Kakeru đối với cô ấy trong chuyến du ngoạn học, nhưng không thích tham gia vào một quan hệ vào thời điểm hiện tại do cô ấy thiếu tự tin, và do đó đã yêu cầu sự giúp sức từ Hachiman, người đã thành công, để giúp duy trì thực trạng.

Kawasaki Saki (川崎 (かわさき) 沙希 (さき), Kawasaki Saki?)

Lồng tiếng bởi: Koshimizu Ami Saki là bạn cùng lớp của Hachiman, người dân có vẻ như như thể một kẻ phạm pháp nhưng muốn kết bạn sâu sắc. Cô quan tâm sâu sắc đến em trai mình khi cô giấu tên và tuổi của tớ để thao tác bán thời gian vào ca đêm để trả học phí và giảm tải cho mái ấm gia đình. Sau khi em trai cô nhờ việc giúp sức của Câu lạc bộ Tình nguyện, ở đầu cuối họ cũng theo Saki đến nơi thao tác của cô và tìm ra động cơ của cô đằng sau ca đêm; cô đã ngừng thao tác sau khi Hachiman gợi ý cho cô nhắm tới học bổng thay thế. Mặc dù điều này sẽ không được phát triển trong anime, nhưng cô ấy dường như tiềm ẩn tình cảm với Hachiman, đến mức cô ấy hầu như không thể nhìn vào mắt anh ấy. Hachiman chẳng bao giờ nhớ nổi tên cô, luôn gọi cô là "Kawa-gì-đó" (川なんとかさん Kawa-nantoka-san).

Tobe Kakeru (戸部 (とべ) 翔 (かける), Tobe Kakeru?)

Lồng tiếng bởi: Horii Chado Tobe là một thành viên của nhóm Hayato, người trong câu lạc bộ bóng đá. Anh có tình cảm với Hina và là chàng trai duy nhất trong lớp ủng hộ ngữ cảnh của Hina cho lễ hội văn hóa. Trong chuyến tham quan của trường, anh dự tính sẽ tỏ tình với Hina và do đó yêu cầu sự giúp sức từ Câu lạc bộ Tình nguyện. Tuy nhiên, vì Hachiman hiểu lập trường hiện tại của Hina là không còn quan hệ nào, anh ta nghĩ rằng những gì đổ vỡ không thể sửa chữa và do đó đã thú nhận với Hina trước Kakeru. Sự từ chối của Hina đối với Hachiman đã ngăn Kakeru thành công thú nhận với cô, do đó duy trì thực trạng.

Yamato (大和 (やまと), Yamato?)

Lồng tiếng bởi: Kawahara Yoshihisa Yamato là một thành viên của nhóm Hayato, người trong câu lạc bộ bóng bầu dục.

Ōoka (大岡 (おおおか), Ōoka?)

Lồng tiếng bởi: Shiraishi Minoru Ōoka là một thành viên của nhóm Hayato, người trong câu lạc bộ bóng chày.

Sagami Minami (相模 (さがみ) 南 (みなみ), Sagami Minami?)

Lồng tiếng bởi: Kotobuki Minako Minami là người lãnh đạo của nhóm có ảnh hưởng lớn thứ hai trong lớp 2-F và có ác cảm với Yui, người mà cô ấy thân thiện trong năm học trung học đầu tiên của tớ, vì đã ở trong nhóm cao cấp. Cô tình nguyện làm người tổ chức sự kiện cho lễ hội văn hóa để phát huy giá trị của tớ mà không hoàn toàn có thể thực sự để làm một việc làm như vậy, và do đó yêu cầu sự giúp sức từ Câu lạc bộ Tình nguyện. Do đó, Yukino đã đảm nhận vai trò trợ lý tổ chức sự kiện và xác định sự để ý quan tâm trong việc biến lễ hội văn hóa thành một lễ hội thành công, điều này làm cho Minami chán nản về sự vô dụng của chính mình và từ chối tổ chức lễ bế mạc. Tuy nhiên, vì lời trách mắng kinh hoàng của Hachiman đã biến mình thành vật tế thần và chuyển sự đổ lỗi ra khỏi Minami, cô ấy đã tham dự lễ bế mạc và kết thúc lễ hội văn hóa một cách cao cả.

Các nhân vật khácSửa đổi

Hikigaya Komachi (比企谷 (ひきがや) 小町 (こまち), Hikigaya Komachi?)

Lồng tiếng bởi: Aoi Yūki Là em gái của Hachiman, hiện giờ đang học năm 3 cấp 2. Cô là một cô nàng dễ thương, năng động và rất yêu quý anh trai. Cô bé thường hay cố ghép đôi Hachiman với Yukino hoặc Yui.

Hiratsuka Shizuka (平塚 (ひらつか) 静 (しずか), Hiratsuka Shizuka?)

Lồng tiếng bởi: Yuzuki Ryōka Shizuka là giáo viên môn văn học cổ xưa và là cố vấn cho câu lạc bộ dịch vụ. Cô nhận thức được "vấn đề" được cho là của Hachiman và thực hiện tiến trình để đảm bảo anh được giải thoát khỏi chúng, động thái đầu tiên của cô là buộc anh tham gia Câu lạc bộ dịch vụ. Tuy nhiên, cô ấy dường như có một số trong những điều kỳ quặc của riêng mình: cô ấy là một người hút thuốc trẻ tuổi, cô ấy rất nhạy cảm về tuổi tác và tình trạng độc thân của cô ấy, và cô ấy thường có xu hướng trích dẫn hoặc sao chép những cảnh từ manga shounen nổi tiếng. Ngoài ra, cô không bao giờ nhớ gõ cửa trước khi vào lớp học của Câu lạc bộ Tình nguyện, với sự thất vọng của Yukino. Sau sự kiện lễ hội văn hóa, cô nói với Hachiman rằng việc giúp sức người khác tránh việc là nguyên do để Hachiman tự làm tổn thương mình, vì có những người dân khác sẽ cảm thấy đau đớn khi thấy Hachiman bị tổn thương.

Zaimokuza Yoshiteru (材木座 (ざいもくざ) 義輝 (よしてる), Zaimokuza Yoshiteru?)

Lồng tiếng bởi: Hiyama Nobuyuki Yoshiteru là một học viên từ lớp 2C mắc chứng ảo tưởng tuổi vị thành niên. Cậu ấy xem Hachiman như một người bạn sau khi hai người được ghép đôi với nhau trong những tiết thể dục. Cậu ta đặt tiềm năng trở thành một tác giả light novel.

Yukinoshita Haruno (雪 (ゆき)ノ下 (した) 陽乃 (はるの), Yukinoshita Haruno?)

Lồng tiếng bởi: Nakahara Mai Haruno là chị gái của Yukino. Khác với Yukino, ban đầu cô ấy thể hiện thái độ tốt với người khác nhưng ở đầu cuối lại thể hiện tính cách nham hiểm. Haruno thậm chí tuyên bố cô sẽ tiêu diệt những người dân cô ghét. Mặc dù là một sinh viên đại học, cô vẫn để nhiều thời gian để theo dõi môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường của em gái mình. Yukino giữ sự thù địch mạnh mẽ và tự tin đối với cô và Haruno chỉ hoàn toàn có thể nói rằng em gái cô liên tục nỗ lực vượt qua cô như dễ thương. Tuy nhiên, Haruno ở đầu cuối cũng thể hiện mối hận thù của riêng mình với Yukino và khiến Yukino và Hachiman cảm thấy tồi tệ trong phần 2. Cô là cựu học viên của trường trung học Sōbu. Cô thừa nhận sự nhận thức của Hachiman và thường tinh nghịch trêu chọc anh. Cô ấy xinh đẹp, giàu sang và lôi cuốn khiến mọi người (gồm có cả người theo dõi của loạt phim) chỉ nhìn thấy mặt tốt của cô ấy, trì hoãn cô ấy và bỏ qua những vấn đề lớn mà cô ấy gây ra cho những người dân khác. Chẳng hạn, trong phần 1, Haruno bất thần xuất hiện để đột ngột can thiệp vào Lễ hội văn hóa nơi vai trò của cô trở thành để khuyến khích Hội trưởng thực hiện thuận tiện và đơn giản, dẫn đến những trách nhiệm bị trì hoãn. Hachiman tham gia vào việc chùng người và đảm nhận vai trò đổ lỗi thông thường của tớ bằng phương pháp phàn nàn vì quyền lợi của người khác, những lời phàn nàn chỉ khiến anh ta bị chỉ trích, dẫn anh ta đến một cuộc đối đầu kịch tính với Chủ tịch Liên hoan.

Kawasaki Taishi (川崎 (かわさき) 大志 (たいし), Kawasaki Taishi?)

Lồng tiếng bởi: Murase Ayumu Taishi là em trai của Saki và là bạn cùng lớp của Komachi. Cậu ấy có quan hệ tốt với Komachi.

Tsurumi Rumi (鶴見 (つるみ) 留美 (るみ), Tsurumi Rumi?)

Lồng tiếng bởi: Morohosi Sumire Rumi là một học viên tiểu học đơn độc, bị những bạn cùng lớp xa lánh. Cô bé trầm tính và có phần chín chắn hơn những đứa trẻ đồng lứa.

Shiromeguri Meguri (城廻 (しろめぐり) めぐり, Shiromeguri Meguri?)

Lồng tiếng bởi: Asakura Azumi Meguri là học viên năm ba và là cựu quản trị hội học viên của trường trung học Sōbu. Mặc dù bản thân cô không phải là một nhà lãnh đạo đáng tin cậy, nhưng tính cách của cô đã mang lại sự ủng hộ to lớn từ những thành viên hội học viên và do đó cô hoàn toàn có thể đoàn kết những thành viên của hội.

Isshiki Iroha (一色 (いっしき) いろは, Isshiki Iroha?)

Lồng tiếng bởi: Sakura Ayane Iroha là học viên năm thứ nhất quản lý đội bóng đá, vui vẻ và xinh đẹp. Khi được đề nghị làm ứng cử viên cho quản trị hội học viên trong một trò chơi khăm, vì không thích vai trò này, cô đã gửi một yêu cầu đến Câu lạc bộ Tình nguyện để không được bầu và không thua trong một kiểu xấu hổ. Cuối cùng, cô đồng ý vai trò là quản trị hội học viên sau khi Hachiman tìm cách thuyết phục cô. Giống như hầu hết mọi người, cô ấy coi thường Hachiman. Cô - kiêu ngạo và lịch sự - thường xuyên từ chối anh khi cô nghĩ anh sắp thú nhận với cô. Tuy nhiên, cô không bao giờ hoàn toàn có thể thao tác làm của tớ với tư cách là quản trị hội học viên và liên tục tìm kiếm sự giúp sức của anh ấy và phát triển một số trong những quan tâm đến anh ấy.

Orimoto Kaori (折本 (おりもと) かおり, Orimoto Kaori?)

Lồng tiếng bởi: Tomatsu Haruka Kaori là bạn cùng lớp của Hachiman ở trường cấp hai, người mà anh đã tỏ tình trong quá khứ. Cô học trường trung học phổ thông Kaihin

Nakamachi Chika (仲町 (なかまち) 千佳 (ちか), Nakamachi Chika?)

Lồng tiếng bởi: Fujita Saki Chika là bạn và là bạn học của Kaori tại trường trung học Kaihin.

Tamanawa (玉縄 (たまなわ), Tamanawa?)

Lồng tiếng bởi: Hino Satoshi Tamanawa là quản trị hội đồng học viên của trường trung học Kaihin.

Mẹ Yukinoshita (雪 (ゆき)ノ下 (した)(母 (はは)), Mẹ Yukinoshita?)

Lồng tiếng bởi: Inoue Kikuko Mẹ của Haruno và Yukino.

Mẹ Yuigahama (由比ヶ浜 (ゆいがはま)(母 (はは)), Mẹ Yuigahama?)

Lồng tiếng bởi: Ohara Sayaka Mẹ của Yui và có quan hệ thân mật với Yui.

Các tập light novelSửa đổi

Loạt light novel do Watari Wataru sáng tác và Ponkan⑧ minh hoạ. Được Shogakukan xuất bản dưới ấn hiệu Gagaga Bunko Tính từ lúc ngày 18 tháng 3 năm 2011[7] cho tới ngày 19 tháng 11 năm 2022, khi bộ truyện chính thức khép lại ở tập thứ 14. Tính đến ngày 17 tháng 9 năm 2022 đã có 14 tập chính truyện,[8] 4 tập tuyển tập truyện ngắn,[9][10][11][12] 4 tập Anthology (hợp tuyển) và 1 tập truyện spin-off được xuất bản.

Phiên bản đặc biệt của tập 3 và 7 tặng kèm theo những đĩa CD Drama,[13][14] còn bản đặc biệt của tập 4 và 8 tặng kèm theo những cuốn artwork do Ponkan⑧ và những họa sỹ khách mời minh hoạ.[15][16] Ba tập ngắn tương hỗ update 6.25, 6.50 và 6.75 được tặng kèm theo đĩa BD/DVD số 1, 3 và 5 phiên bản số lượng giới hạn của anime mùa 1, về sau ba tập ngắn này được phát hành dưới dạng một tập duy nhất, đánh số là 6.5.[9] Phiên bản đặc biệt số lượng hạn chế của tập này tặng kèm theo một đĩa CD Drama.[17]

Phần ANOTHER, do chính Wataru sáng tác, nội dung kể về Oregairu trong một diễn biến hoàn toàn khác và không còn liên hệ gì tới phần chính truyện. Truyện được phân thành 7 tập ngắn, là quà tặng kèm theo đĩa BD/DVD của anime mùa 2.

Có 4 tập Anthology (hợp tuyển) do Watari Wataru và một số trong những tác giả khác cùng sáng tác. Nội dung kể về những sự kiện ra mắt sau tập 14. Tập 1 với tựa "Yukino Side"[18] và tập 2 với tựa "On Parade"[19] cùng được phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 2022. Tập 3 với tựa "Yui Side"[20] và tập 4 với tựa "All Stars"[21] cùng được phát hành vào ngày 17 tháng 4 năm 2022.

Phần hậu truyện chính thức, với tựa: "Yahari Ore no Seishun Love Come wa Machigatteiru. Shin" được phân thành 6 tập ngắn, là quà tặng kèm theo đĩa BD/DVD của anime mùa 3.[22] Nội dung kể về những sự kiện ra mắt sau tập 14 của light novel. Tập 1 phát hành ngày 25 tháng 9 năm 2022.[23] Tập 2 phát hành ngày 28 tháng 10 năm 2022.[24] Tập 3 phát hành ngày 28 tháng 11 năm 2022.[25] Tập 4 phát hành ngày 15 tháng 1 năm 2022.[26] Tập 5 phát hành ngày 8 tháng 3 năm 2022.[27] Tập 6 phát hành ngày 26 tháng 3 năm 2022.[28]

Một phần spin-off với tựa "Yahari Ore no Seishun Love Come wa Machigatteiru. Ketsu" được công bố lần đầu vào ngày 17 tháng 1 năm 2022 tại sự kiện Oregairu Fes FINAL.[29] Phần truyện này được chuyển thể nhờ vào phần ANOTHER, tập đầu tiên được phát hành vào ngày 17 tháng 9 năm 2022.

Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầmSửa đổi #Phát hành Tiếng NhậtPhát hành Tiếng ViệtNgày phát hànhISBNNgày phát hànhISBN1 18 tháng 3, 2011ISBN 978-4-09-451262-513 tháng 10, 2017ISBN 978-604-967-843-12 20 tháng 7, 2011ISBN 978-4-09-451286-12 tháng 2, 2018ISBN 978-604-969-254-33 18 tháng 11, 2011ISBN 978-4-09-451304-229 tháng 6, 2018ISBN 978-604-967-844-84 16 tháng 3, 2012ISBN 978-4-09-451332-53 tháng 10, 2018ISBN 978-604-967-845-55 18 tháng 7, 2012ISBN 978-4-09-451356-115 tháng 3, 2019ISBN 978-604-967-846-26 20 tháng 11, 2012ISBN 978-4-09-451380-615 tháng 3, 2019ISBN 978-604-55-3448-96.5 22 tháng 7, 2014ISBN 978-4-09-451501-515 tháng 7, 2020ISBN 978-604-55-5901-27 19 tháng 3, 2013ISBN 978-4-09-451402-515 tháng 7, 2019ISBN 978-604-55-4235-47.5 20 tháng 8, 2013ISBN 978-4-09-451434-618 tháng 12, 2019ISBN 978-604-55-4697-08 19 tháng 11, 2013ISBN 978-4-09-451451-318 tháng 12, 2019ISBN 978-604-55-4698-79 18 tháng 4, 2014ISBN 978-4-09-451482-718 tháng 12, 2019ISBN 978-604-55-4738-010 18 tháng 11, 2014ISBN 978-4-09-451523-728 tháng 4, 2020ISBN 978-604-55-4738-010.5 18 tháng 3, 2015ISBN 978-4-09-451542-820 tháng 11, 2020ISBN 978-604-55-5901-211 24 tháng 6, 2015ISBN 978-4-09-451558-92 tháng 2, 2021ISBN 978-604-55-7620-512 20 tháng 9, 2017ISBN 978-4-09-451674-618 tháng 6, 2021ISBN 978-604-339-543-313 20 tháng 11, 2018ISBN 978-4-09-451762-017 tháng 11, 2021ISBN —14 19 tháng 11, 2019ISBN 978-4-09-451781-1—ISBN —14.5 20 tháng 4, 2021ISBN 978-4-09-453004-9—ISBN —

Mã ISBN tiếng Việt được lấy từ Cục Xuất bản, In và Phát hành - Bộ thông tin và truyền thông.[30]

AnthologySửa đổi #Tựa đềPhát hành Tiếng NhậtPhát hành Tiếng Việt1Yukino Side18/3/2022
ISBN 978-4-09-451835-1-2On Parade18/3/2022
ISBN 978-4-09-451836-8-3Yui Side20/4/2022
ISBN 978-4-09-451845-0-4All Stars20/4/2022
ISBN 978-4-09-451846-7-

Truyền thôngSửa đổi

AnimeSửa đổi

Mùa anime đầu tiên gồm 13 tập, chuyển thể từ tập 1 đến tập 6 của light novel. Sản xuất bởi studio Brain's Base, do Yoshimura Ai đạo diễn. Phát sóng từ ngày 5 tháng 4 cho tới ngày 28 tháng 6 năm 2013,[31] với một tập phim nguyên gốc anime do chính Watari Wataru chắp bút.[32] Mùa phim có một tập OVA được tặng kèm cùng phiên bản số lượng giới hạn của phần trò chơi đầu tiên, phát hành vào ngày 19 tháng 9 năm 2013.[33] Ca khúc opening là "Yukitoki" (ユキトキ) thể hiện bởi Yanagi Nagi. Ca khúc ending là "Hello Alone" thể hiện bởi Hayami Saori và Tōyama Nao.[34] Bộ anime đã được cấp phép bởi Sentai Filmworks ở Bắc Mỹ và được Madman Entertainment cấp phép ở Úc và New Zealand.[35][36][37]

Mùa thứ hai được Shogakukan công bố vào năm 2014.[38] Mùa này còn có tựa đề "Yahari Ore no Seishun Love Come wa Machigatteiru. Zoku" gồm 13 tập, chuyển thể từ tập 7 đến tập 11 của light novel. Sản xuất bởi studio Feel và đạo diễn bởi Oikawa Kei, phần thiết kế nhân vật do Tanaka Yuichi đảm nhiệm.[39] Phát sóng từ ngày 3 tháng 4 cho tới ngày 26 tháng 6 năm 2015. Ca khúc opening là "Harumodoki" (春擬き) thể hiện bởi Yanagi Nagi.[40] Ca khúc ending là "Everyday World." (エブリデイワールド) thể hiện bởi Hayami Saori và Tōyama Nao.[41] Mùa hai đã được cấp phép bởi Sentai Filmworks.[42] Mùa phim có một tập OVA, với tiêu đề "Không nghi ngờ gì nữa, những cô nàng được làm từ đường, gia vị và thứ gì đó tuyệt vời" (きっと、女の子はお砂糖とスパイスと素敵な何かでできている, Kitto, onna no ko wa osatō to supaisu to suteki na nani ka de dekite iru?), được tặng kèm cùng phiên bản số lượng giới hạn của phần trò chơi thứ hai, phát hành vào ngày 27 tháng 10 năm 2022.[43]

Mùa thứ ba được Shogakukan công bố vào ngày 18 tháng 3 năm 2022[44] với tựa đề "Yahari Ore no Seishun Love Come wa Machigatteiru. Kan" gồm 12 tập, chuyển thể từ tập 12 đến tập 14 của light novel. Sản xuất bởi studio Feel[45] và đạo diễn bởi Oikawa Kei, phần thiết kế nhân vật do Tanaka Yuichi đảm nhiệm.[46] Ban đầu được dự kiến phát sóng từ ngày 9 tháng 4 năm 2022 nhưng do ảnh hưởng của dịch COVID-19 [47] nên tới ngày 9 tháng 7 mùa ba mới chính thức được phát sóng, đến ngày 24 tháng 9 năm 2022 thì kết thúc. Ca khúc opening là "Megumi no Ame" (芽ぐみの雨) thể hiện bởi Yanagi Nagi, và ca khúc ending là "Diamond no Jundo" (ダイヤモンドの純度) thể hiện bởi Hayami Saori và Tōyama Nao.[48] Mùa 3 đã được Sentai Filmworks cấp phép phát hành toàn cầu, ngoại trừ khu vực Châu Á.[49] Tại Đông Nam Á, mùa 3 được cấp phép bởi Medialink và phát sóng trên nền tảng xem video trực tuyến iQIYI[50]. Ngày 17 tháng 1 năm 2022, tại sự kiện Oregairu Fes FINAL, mùa 3 được công bố sẽ có một tập OVA. Tập phim này sẽ được tặng kèm cùng với phần trò chơi thứ ba.[29]

MangaSửa đổi

Bộ truyện có hai bản manga chuyển thể, một phần manga spin-off cùng năm tập manga hợp tuyển.

Phiên bản manga chuyển thể đầu tiên có tựa "Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. Monologue" do Kazuki Rechi minh hoạ, được đăng trên tạp chí Big Gangan của Square Enix Tính từ lúc ngày 25 tháng 9 năm 2012.[51] Các chương manga hiện đã được sửa đổi và biên tập thành 19 tập tankobon.

Phiên bản manga chuyển thể thứ hai có tựa "Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. @Comic" do Io Naomichi minh hoạ, được đăng trên Nguyệt san Sunday Gene-X của Shogakukan Tính từ lúc ngày 19 tháng 12 năm 2012. Các chương manga hiện đã được sửa đổi và biên tập thành 20 tập tankobon. Bộ truyện đã được Thaihabooks mua bản quyền phát hành và dự kiến phát hành trong năm 2022.[4]

Phiên bản thứ ba, với tựa: "Yahari 4-koma demo Ore no Seishun Rabu Kome wa machigatteiru". Là một bộ manga bốn khung do Taneda Yuta sáng tác và mình hoạ, được xuất bản bởi Ichijinsha. Bộ manga gồm 2 tập. Tập đầu tiên xuất bản vào ngày 21 tháng 6 năm 2014, tập thứ hai xuất bản vào ngày 22 tháng 7 năm 2015.

Ngoài ra, còn tồn tại 4 tập manga hợp tuyển mang tên "Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. Manga Anthology" do nhiều tác giả đồng sáng tác, được Ichijinsha xuất bản. Manga là phiên bản ngắn gọn hơn của light novel, được minh hoạ theo phong cách chibi. Tập đầu tiên xuất bản vào ngày 25 tháng 5 năm 2013 và tập thứ tư xuất bản vào ngày 28 tháng 1 năm 2022.

Có 1 tập manga mang tên "Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. GX Comic Anthology". Tập manga được minh hoạ và sáng tác bởi nhiều hoạ sĩ, tác giả rất khác nhau. Được xuất bản vào ngày 17 tháng 7 năm 2022.[52]

Oregairu MonologueSửa đổi #Ngày phát hành ISBN 1 19/3/2013[53]ISBN 978-4-7575-3925-92 20/8/2013[54]ISBN 978-4-7575-4031-63 25/12/2013[55]ISBN 978-4-7575-4193-14 24/5/2014[56]ISBN 978-4-7575-4318-85 18/11/2014[57]ISBN 978-4-7575-4466-66 18/3/2015[58]ISBN 978-4-7575-4581-67 18/6/2015[59]ISBN 978-4-7575-4663-98 25/12/2015[60]ISBN 978-4-7575-4845-99 25/7/2022[61]ISBN 978-4-7575-5062-910 25/1/2022[62]ISBN 978-4-7575-5226-511 25/8/2022[63]ISBN 978-4-7575-5456-612 24/3/2022[64]ISBN 978-4-7575-5675-113 25/3/2022[65]ISBN 978-4-7575-5897-714 25/6/2022[66]ISBN 978-4-7575-6174-815 25/11/2022 [67]ISBN 978-4-7575-6359-916 25/3/2022[68]ISBN 978-4-7575-6578-417 22/7/2022[69]ISBN 978-4-7575-6714-618 25/1/2022[70]ISBN 978-4-7575-7052-819 26/07/2022[71]ISBN 978-4-7575-7380-220 25/03/2022[72]ISBN 978-4-7575-7841-8Oregairu @comicSửa đổi #Phát hành Tiếng NhậtPhát hành viNgày phát hànhISBNNgày phát hànhISBN1 17/05/2013[73]ISBN 978-4-09-157349-0-ISBN -2 19/11/2013[74]ISBN 978-4-09-157362-9-ISBN -3 19/05/2014[75]ISBN 978-4-09-157377-3-ISBN -4 19/11/2014[76]ISBN 978-4-09-157396-4-ISBN -5 19/05/2015[77]ISBN 978-4-09-157417-6-ISBN -6 21/11/2015[78]ISBN 978-4-09-157430-5-ISBN -7 17/06/2022[79]ISBN 978-4-09-157450-3-ISBN -8 18/11/2022[80]ISBN 978-4-09-157464-0-ISBN -9 19/05/2022[81]ISBN 978-4-09-157486-2-ISBN -10 17/11/2022[82]ISBN 978-4-09-157506-7-ISBN -11 18/05/2022[83]ISBN 978-4-09-157525-8-ISBN -12 19/11/2022[84]ISBN 978-4-09-157550-0-ISBN -13 19/04/2022[85]ISBN 978-4-09-157563-0-ISBN -14 19/11/2022[86]ISBN 978-4-09-157581-4-ISBN -15 19/03/2022[87]ISBN 978-4-09-157592-0-ISBN -16 18/09/2022[88]ISBN 978-4-09-157606-4-ISBN -17 19/02/2022[89]ISBN 978-4-09-157623-1-ISBN -18 19/07/2022[90]ISBN 978-4-09-157642-2-ISBN -19 17/12/2022[91]ISBN 978-4-09-157664-4-ISBN -20 19/05/2022[92]ISBN 978-4-09-157679-8-ISBN -Oregairu 4-komaSửa đổi #Ngày phát hành ISBN 1 21/6/2014[93]ISBN 978-4-7580-8203-72 22/7/2015[94]ISBN 978-4-7580-8243-3Oregairu Manga AnthologySửa đổi #Ngày phát hành ISBN 1 25/5/2013[95]ISBN 978-4-7580-0748-12 25/7/2013[96]ISBN 978-4-7580-0765-83 25/8/2015[97]ISBN 978-4-7580-0856-34 28/1/2022[98]ISBN 978-4-7580-0887-7

Drama CDSửa đổi

Drama CD đầu tiên, có tựa Tatoeba Konna Birthday Song (Nhật: たとえばこんなバースデーソング, Tatoeba Konna Birthday Song? "Giả như có một bài hát chúc mừng sinh nhật như vậy này"), được tặng kèm cùng phiên bản đặc biệt của light novel tập 3,[13] xuất bản vào ngày 18 tháng 11 năm 2011. Đĩa có chứa một ca khúc mang tên "Bright Generation" sáng tác bởi Hashimoto Yukari, do Hayami Saori cùng Tōyama Nao thể hiện. Về sau Drama CD này được chuyển thể thành bonus track của light novel tập 3.

Drama CD thứ hai, với tựa Hikigaya Komachi no Keiryaku (Nhật: 比企谷小町の計略, Hikigaya Komachi no Keiryaku? "Kế hoạch của Hikigaya Komachi"), được mở bán lần đầu tại quầy bán hàng của Marvelous AQL trong sự kiện Comiket 83, ra mắt từ ngày 29 cho tới ngày 31 tháng 12 năm 2012. Về sau Drama CD này được chuyển thể thành bonus track của light novel tập 7.5.

Drama CD thứ ba, có tựa Kanojotachi no, We Will Rock You (Nhật: 彼女たちの、うぃー・うぃる・ろっく・ゆー♡, Kanojotachi no, We Will Rock You?), được tặng kèm cùng phiên bản đặc biệt của light novel tập 7,[14] xuất bản vào ngày 19 tháng 3 năm 2013. Đĩa có chứa một ca khúc mang tên "Rock You!!" sáng tác bởi Saitou Yūya, do Hayami Saori cùng Tōyama Nao thể hiện. Về sau Drama CD này được chuyển thể thành bonus track của light novel tập 7.

Drama CD thứ tư, có tựa Sono Christmas Candle no Akari ga Yureru Toki... (Nhật: そのクリスマスキャンドルの灯が揺れる時……。, Sono Christmas Candle no Akari ga Yureru Toki...? "Khi ánh nến Giáng sinh đung đưa lay động…") được tặng kèm cùng phiên bản đặc biệt của light novel tập 6.5,[17] xuất bản vào ngày 19 tháng 7 năm 2014. Đĩa có chứa một ca khúc mang tên "Kimi to Merry Christmas" do Hayami Saori cùng Tōyama Nao thể hiện. Về sau Drama CD này được chuyển thể thành bonus track của light novel tập 6.5.

Trò chơi điện tử (Video games)Sửa đổi

Một tựa trò chơi, có tiêu đề "Yahari Game demo Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru." do 5pb phát triển cho hệ máy PlayStation Vita, được phát ngày 19 tháng 9 năm 2013. Phiên bản số lượng giới hạn của tựa trò chơi tặng kèm theo một tập OVA.

Phần trò chơi thứ hai cũng do 5pb phát triển, được phát hành vào ngày 27 tháng 10 năm 2022. Phiên bản số lượng giới hạn của phần trò chơi tặng kèm theo một tập OVA.

Loạt trò chơi được dự kiến sẽ có phần thứ 3.[29]

Đón nhậnSửa đổi

Oregairu được bầu chọn là light novel hay nhất của bảng xếp hạng uy tín Kono Light Novel ga Sugoi! trong 3 năm liên tục là 2014, 2015 và 2022.[99] Trong trong năm đó Hachiman cũng khá được bầu làm nhân vật nam được yêu thích nhất. Còn Yukino được bầu làm nhân vật nữ được yêu thích nhất trong năm 2015. Họa sĩ minh họa Ponkan⑧ cũng khá được bầu chọn là họa sỹ minh họa được yêu thích nhất trong năm 2015 và 2022.

Theo thống kê của Gagaga Bunko, tính đến ngày 14 tháng 9 năm 2022, Oregairu đã bán được hơn 7 triệu bản tại thị trường Nhật.[100] Tới ngày 17 tháng 12 năm 2022, Oregairu đã bán được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới.[101]

Tham khảoSửa đổi

^ “My Teen Romantic Comedy ~ SNAFU - Sentai Filmworks”. Sentai Filmworks. Bản gốc tàng trữ ngày 5 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2014. ^ 『やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。』略称を考えるコーナー (bằng tiếng Nhật). Wataru Watari. ngày 15 tháng 2 năm 2011. Bản gốc tàng trữ ngày 7 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013. ^ “Bản sao đã tàng trữ”. Bản gốc tàng trữ ngày 30 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2015. ^ a b Hikari Light Novel - Thaihabooks (1 tháng 12 năm 2022). “Thành viên mới của Hikari trong năm 2022!”. facebook.com. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày một tháng 12 năm 2022. ^ “Bản sao đã tàng trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2022. ^ “Bản sao đã tàng trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2015. ^ “Oregairu vol 1”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2022. ^ “Oregairu vol 14”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022. ^ a b “Oregairu vol 6.5”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022. ^ “Oregairu vol 7.5”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022. ^ “Oregairu vol 10.5”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022. ^ “Oregairu vol 14.5”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2022. ^ a b “Oregairu vol 3 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022. ^ a b “Oregairu vol 7 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022. ^ “Oregairu vol 4 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022. ^ “Oregairu vol 8 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022. ^ a b “Oregairu vol 6.5 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022. ^ “Oregairu Anthology vol 1- Yukino Side”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2022. ^ “Oregairu Anthology vol 2 - On Parade”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2022. ^ “Oregairu Anthology vol 3 - Yui Side”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2022. ^ “Oregairu Anthology vol 4 - All Stars”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2022. ^ “Oregairu season 3 BD/DVD”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2022. ^ “Oregairu Shin vol 1”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. ^ “Oregairu Shin vol 2”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. ^ “Oregairu Shin vol 3”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. ^ “Oregairu Shin vol 4”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. ^ “Oregairu Shin vol 5”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2022. ^ “Oregairu Shin vol 6”. Amazon.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2022. ^ a b c “New My Teen Romantic Comedy SNAFU Game to Also Include Original Video Anime”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2022. ^ Cục xuất bản, in và phát hành - Bộ thông tin và truyền thông. “Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm | Cục xuất bản”. ppdvn.gov. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2022. ^ “'My Youth Romantic Comedy Is Wrong as I Expected' Anime's 1st Promo Streamed”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2022. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Gets More Anime”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2022. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Game, OVA to Ship on September 19”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2022. ^ “'My Youth Romantic Comedy Is Wrong as I Expected' Anime's Teaser Posted”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2022. ^ “My Teen Romantic Comedy ~ SNAFU - Sentai Filmworks”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2022. ^ “Madman Entertainment Acquisitions From Supanova Pop Culture Expo - Gold Coast”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2022. ^ “Sentai Filmworks Adds My Teen Romantic Comedy Snafu TV Anime”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2022. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Anime Gets 2nd Season”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2022. ^ “Outbreak Company's Oikawa to Direct My Teen Romantic Comedy SNAFU Season 2 Studio feel”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2022. ^ “'Nagi Yanagi Returns to Perform 2nd My Teen Romantic Comedy SNAFU Season's Opening”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2022. ^ “Saori Hayami, Nao Tōyama Return to Sing 2nd My Teen Romantic Comedy SNAFU Season's Ending”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2022. ^ “Sentai Filmworks Adds Pleiades, Re-Kan, Snafu Too, Hello! Kinmoza, UtaPri Season 3, Is It Wrong to Try to Pick Up Girls in a Dungeon?, Food Wars”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2015. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU TOO! PS Vita Game to Bundle Original Anime Blu-ray”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày một tháng 2 năm 2022. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU TV Anime Gets 3rd Season”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2022. ^ “Studio feel. Returns for My Teen Romantic Comedy SNAFU TV Anime's 3rd Season in 2022”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2022. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Anime Season 3's Video Reveals Cast, Staff, Title, Spring Debut & Teases Finale”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2022. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Climax TV Anime Broadcast Postponed Due to Coronavirus”. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2022. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Anime Season 3 Reveals Theme Songs”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2022. ^ “SENTAI SNAPS UP SEASON 3 OF "MY TEEN ROMANTIC COMEDY SNAFU"”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2022. ^ “iQiyi Adds 7 Summer Anime for Southeast Asia”. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2022. ^ “Tạp chí Big Gangan số thứ 10 năm 2012”. Amazon.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày một tháng 7 năm 2022. ^ “Oregairu GX Comic Anthology”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 1 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 2 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 3 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 4 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 5 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 6 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 7 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 8 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 9 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 10 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 11 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 12 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 13 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 14 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 15 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 16 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 17 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 18 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 19 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 20 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 1 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 2 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 3 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 4 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 5 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 6 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 7 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 8 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 9 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 10 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 11 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 12 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 13 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 14 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 15 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 16 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 17 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 18 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 19 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2022. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 20 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2022. ^ Oregairu 4-koma vol 1 (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2022. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp) ^ Oregairu 4-koma vol 2 (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2022. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp) ^ Oregairu Manga Anthology vol 1 (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập Ngày 5 tháng 4 năm 2022. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp) ^ Oregairu Manga Anthology vol 2 (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập Ngày 5 tháng 4 năm 2022. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp) ^ Oregairu Manga Anthology vol 3 (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập Ngày 5 tháng 4 năm 2022. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp) ^ Oregairu Manga Anthology vol 4 (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập Ngày 5 tháng 4 năm 2022. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp) ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Tops Kono Light Novel ga Sugoi! List for 2nd Straight Year”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2022. ^ “Oregairu bán được hơn 7 triệu bản tại thị trường Nhật”. Trang twitter chính thức của Gagaga Bunko. ^ “Oregairu bán được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới”. Trang twitter chính thức của Gagaga Bunko.

Liên kết ngoàiSửa đổi

    Trang light novel chính thức (tiếng Nhật) Trang web của anime (tiếng Nhật) Trang web chính thức của trò chơi điện tử (tiếng Nhật) Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm (light novel) tại từ điển bách khoa của Anime News Network

Review Câu chuyện thanh xuân bi hài ss1 ?

Bạn vừa Read nội dung bài viết Với Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về Video Câu chuyện thanh xuân bi hài ss1 tiên tiến nhất

Chia Sẻ Link Down Câu chuyện thanh xuân bi hài ss1 miễn phí

Hero đang tìm một số trong những ShareLink Download Câu chuyện thanh xuân bi hài ss1 Free.

Giải đáp thắc mắc về Câu chuyện thanh xuân bi hài ss1

Nếu sau khi đọc nội dung bài viết Câu chuyện thanh xuân bi hài ss1 vẫn chưa hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Ad lý giải và hướng dẫn lại nha #Câu #chuyện #thanh #xuân #hài #ss1 - 2022-06-09 05:14:05
Post a Comment (0)
Previous Post Next Post