Mẹo về Triệu Quang Phục đánh giặc Lương chọn địa thế căn cứ ở đầu Chi Tiết
Lê Khánh Vy đang tìm kiếm từ khóa Triệu Quang Phục đánh giặc Lương chọn địa thế căn cứ ở đầu được Cập Nhật vào lúc : 2022-06-30 20:12:02 . Với phương châm chia sẻ Mẹo Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết Mới Nhất. Nếu sau khi đọc Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.
Mò cái này là biết
1. Tư duy, tư tưởng quân sự Việt Nam xuất hiện từ buổi đầu dựng nước và giữ nước, có một quá trình hình thành, phát triển liên tục đa phần do nhu yếu chống ngoại xâm, luôn gắn sát trong quan hệ giữa trận chiến tranh và hòa bình, giữa dựng nước và giữ nước. Suốt dọc dài lịch sử từ thế kỷ III Tr. CN đến đầu thế kỷ XV, dân tộc bản địa ta đã nêu cao tinh thần quật cường, độc lập tự cường, lòng yêu nước, trí thông minh và tài năng thao lược; xây hình thành một truyền thống tư tưởng, văn hóa quân sự độc đáo. Mỗi quá trình lịch sử, ông cha ta đều có những tư duy, quan điểm, tư tưởng quân sự sáng tạo, đều giành được nhiều chiến công, lập nên những chiến tích phi thường trong sự nghiệp đánh giặc, giữ nước.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước thời Hùng Vương - An Dương Vương, nhiều truyền thống dân tộc bản địa đã được hình thành, tư duy, tư tưởng quân sự Việt Nam xuất hiện và phát triển bước đầu. Nhân dân Văn Lang - Âu Lạc phải liên tục chống nhiều thứ giặc, tiêu biểu là hai cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III Tr. CN) và chống Triệu (thế kỷ II Tr. CN). Vừa dựng nước, tổ tiên ta đã phải nghĩ đến đánh giặc, giữ nước. Qua đấu tranh với thiên tai và địch họa, ý thức hiệp hội, ý chí chống ngoại xâm phát sinh và phát triển. Người Việt đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm tay nghề, trong đó có bài học kinh nghiệm tay nghề thắng lợi quân thù xâm lược và bài học kinh nghiệm tay nghề mất nước thời An Dương Vương.
Tư duy quân sự nhỏ đánh lớn đã hình thành trong hơn mười năm kháng chiến chống Tần. Thành Cổ Loa và những vũ khí bảo vệ thành như nỏ Liên Châu là những sáng chế lớn về kỹ thuật quân sự, thể hiện tư duy quân sự độc đáo của nhân dân Âu Lạc.
Thất bại của An Dương Vương đã dẫn đến thảm họa nước ta liên tục bị phong kiến phương Bắc từ Triệu, Hán đến Tùy, Đường đô hộ. Thời Bắc thuộc kéo dãn hơn thế nữa một nghìn năm với âm mưu đồng hóa thâm độc của ngoại bang là một thử thách rất là nghiêm trọng đối với sự mất còn của dân tộc bản địa ta. Tư duy, tư tưởng quân sự của ông cha ta quá trình này chứng tỏ người Việt từ sớm đã có ý thức dân tộc bản địa, ý chí quật cường và tinh thần bền chắc bảo vệ giống nòi, tổ tiên, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa lâu lăm, quyết tâm giành lại tự do, độc lập. Tinh thần và ý chí đó được biểu lộ qua bao cuộc khởi nghĩa và trận chiến tranh chống ách đô hộ, chống sự đồng hóa tàn bạo, thâm hiểm của quân địch.
Sau thắng lợi Bạch Đằng (938), khi nước Đại Việt độc lập đang vươn lên mạnh mẽ và tự tin để xây dựng một quốc gia văn minh, thịnh vượng, thì ở phương Bắc cũng xuất hiện những thế lực bành trướng, xâm lược và nạn ngoại xâm vẫn không ngừng nghỉ đe dọa. Nhân dân ta lại phải tiếp tục đánh giặc, giữ nước. Hai trách nhiệm dựng nước và giữ nước luôn gắn bó khăng khít với nhau. Gần năm thế kỷ phục hưng đất nước cũng là một quá trình huy hoàng của lịch sử dân tộc bản địa với bao thành tựu rạng rỡ của nền văn hóa Thăng Long và nhiều chiến công hiển hách trong sự nghiệp giữ nước. Tư tưởng quân sự của ông cha ta quá trình này phát triển mạnh mẽ và tự tin, thể hiện nguyện vọng hòa bình, ý chí thống nhất quốc gia, tinh thần độc lập, tự cường dân tộc bản địa và quyết tâm chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ non sông đất nước. Chiến công của Đinh Tiên Hoàng dẹp yên "loạn mười hai sứ quân" chứng tỏ tư tưởng quyết không để đất nước bị chia cắt, không để thế nước suy giảm vì sự xẻ chia. Chiến thắng của Lê Đại Hành (981) xác định ý chí bảo vệ độc lập, độc lập lãnh thổ quốc gia, tạo điều kiện cho đất nước bước vào kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Giai đoạn Lý - Trần thể hiện tư duy, tư tưởng quân sự của ông cha ta trong việc xây dựng và phát triển một nền binh chế và kế sách giữ nước tiến bộ của Nhà nước Đại Việt. Biết bao quan điểm, tư tưởng quân sự độc đáo, tiến bộ xuất hiện. Và từ đó một tổ chức quân sự với nhiều thứ quân ra đời gồm có cấm quân (quân triều đình), quân những đạo, lộ (quân địa phương) và dân binh, hương binh những làng bản. Kỹ thuật quân sự quá trình này cũng vì thế có những bước phát triển mới, từ bạch khí chuyển sang hỏa khí. Tư tưởng và nghệ thuật và thẩm mỹ quân sự đã đạt đến một đỉnh cao chói lọi, thể hiện trí tuệ, tài năng quân sự của dân tộc bản địa ta.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý và bài thơ Nam quốc sơn hà - Bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên nổi tiếng, chứng tỏ sự phát triển của tinh thần yêu nước, cũng như hành vi và nhận thức về độc lập lãnh thổ dân tộc bản địa. Ba lần kháng chiến thống Mông - Nguyên thắng lợi cùng với những bộ Binh thư, Hịch tướng sĩ, Di chúc của Trần Quốc Tuấn phản ánh sự trưởng thành về tư tưởng, lý luận quân sự Việt Nam, của tư duy quân sự gắn nước với dân, nhờ vào dân để tiến hành cuộc trận chiến tranh giữ nước. Cuộc kháng chiến chống Minh thời Hồ đã để lại những bài học kinh nghiệm tay nghề về sai lầm trong tổ chức và chỉ huy trận chiến tranh. Tư tưởng quân sự chỉ nhờ vào quân đội và thành trì, không nhờ vào dân để đánh giặc, cũng như tư tưởng kế hoạch phòng ngự bị động thời Hồ đã dẫn đến thảm họa mất nước. Khởi nghĩa Lam Sơn nêu cao ngọn cờ đại nghĩa, phát triển thành cuộc trận chiến tranh giải phóng dân tộc bản địa mang đậm tính chất nhân dân sâu rộng. Nhiều quan điểm, tư tưởng xuất sắc trong lãnh đạo, chỉ huy trận chiến tranh giải phóng dân tộc bản địa xuất hiện. Bình Ngô đại cáo vang động núi sông, thể hiện ước vọng của toàn nước: "Mở nền thái bình muôn thuở". Lịch sử quân sự dân tộc bản địa thế kỷ X - XV để lại nhiều bài học kinh nghiệm tay nghề trong đó có bài học kinh nghiệm tay nghề trong nghành tư duy, tư tưởng về tổ chức xây dựng lực lượng và phương thức tiến hành trận chiến tranh nhân dân chống xâm lược, về kế sách giữ nước và nghệ thuật và thẩm mỹ đánh giặc...
Kỷ nguyên Đại Việt thật đáng tự hào với bao thành tựu trên cả hai nghành xây dựng và bảo vệ đất nước, rực rỡ văn trị, chói lọi võ công.
2. Lịch sử dân tộc bản địa từ thế kỷ III Tr.CN đến đầu thế kỷ XV đã chứng tỏ rằng, không thời kỳ nào, không triều đại nào, nhân dân ta không phải chống ngoại xâm. Có thể kỷ dân tộc bản địa ta phải liên tục ba lần đứng lên tiến hành kháng chiến (thế kỷ X, thế kỷ XIII); họa mất nước có khi kéo dãn hàng trăm, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm. Do vậy, ông cha ta thời nào thì cũng phải đề cao cảnh giác, suy nghĩ phương sách để giữ nước. Nguyễn Trãi từng nói rằng: "Trải biến cố nhiều thì suy tính sâu, lo việc xa thì thành công lạ"; thực tiễn lịch sử đã hun đúc nên những phẩm giá cao đẹp, ý chí kiên cường, trí tuệ sáng tạo và những tư duy, tư tưởng quân sự tiến bộ của nhân dân ta. Nhìn tổng quát, tư tưởng quân sự quá trình này hàm chứa những nội dung đa phần như sau:
Thứ nhất là, tư duy, tư tưởng về độc lập lãnh thổ dân tộc bản địa, ý chí độc lập, tự chủ tinh thần quyết tâm đánh giặc, bảo vệ và giải phóng quê hương đất nước. Lòng yêu nước, ý chí độc lập tự chủ đã hình thành rất sớm và trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong ký ức dân gian còn truyền tụng biết bao câu truyện phản ánh tinh thần và ý chí đó. Câu chuyện cậu bé làng Phù Đổng vụt lớn lên đánh đuổi giặc ân, tuy là lịch sử thuở nào, nhưng đã thắm đượm tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm trong buổi đầu giữ nước. Lời thề của Bà Trưng, Bà Triệu, những câu nói nổi tiếng của bao vị anh hùng như Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Bình Trọng... đã thể hiện tinh thần và khí phách của quân và dân ta trước họa ngoại xâm. Tiếng hô "đánh" trong Hội nghị Diên Hồng, ý chí quyết giết giặc "Sát Thát" của quân đội nhà Trần, bài thơ Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo... đều toát lên ý chí độc lập, tự chủ, nguyện vọng hòa bình, tinh thần đánh giặc, giữ nước của ông cha. Đó đó đó là cội nguồn của mọi thắng lợi.
Thứ hai là, tư duy, tư tưởng quân sự về xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội. Ngay từ thời Hùng Vương - An Dương Vương, từ thời Bắc thuộc, ông cha ta đã biết nhờ vào lực lượng dân binh, hương binh trong những bản làng, thôn ấp để chiến đấu, để xây dựng quân đội và nghĩa quân đánh giặc. Các triều đại phong kiến tiến bộ thời kỳ độc lập đều nhờ vào dân, xây dựng lực lượng quân sự nhiều thứ quân mà nòng cốt là quân triều đình (Thiên tử quân, cấm quân). Tư tưởng xây dựng "quân cốt tinh không cốt nhiều" là tư tưởng phù phù phù hợp với điều kiện dựng nước phải gắn sát với giữ nước. Tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang theo chủ trương "ngụ binh ư nông", gắn việc binh với việc nông, gắn kinh tế tài chính với quốc phòng, luôn phù phù phù hợp với yêu cầu cân đối giữa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu. Tư tưởng xây dựng một đội nhóm quân "phụ tử chi binh", đã tạo nên sức mạnh đánh giặc giữ nước trong nhiều triều đại.
Thứ ba là, tư tưởng thân dân, nhờ vào dân, động viên toàn dân, toàn nước đánh giặc. Các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến thời Bắc thuộc như khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan... đã mang tính chất chất toàn dân đánh giặc. Các vị minh quân, hiền thần, những nhà quân sự nổi tiếng thời Tiền Lê, Lý, Trần đều có tư tưởng thân dân, biết động viên và tổ chức nhân dân toàn nước tiến hành trận chiến tranh giữ nước. Nguyễn Trãi nhận định rằng "Lật thuyền chở thuyền mới biết sức dân như nước" (Phúc chu thủy tín dân do thuỷ) và đã cùng Lê Lợi "tập hợp bốn phương manh lệ" khởi nghĩa thành công. Đặt trong toàn cảnh lịch sử buổi đầu thời trung đại thì tư tưởng "khoan thư sức dân", "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" là những tư tưởng rất là tiến bộ và chính đó là nguồn gốc tạo nên sức mạnh giữ nước.
Thứ tư là, tư tưởng xây dựng đất đứng chân - địa thế căn cứ địa khởi nghĩa và kháng chiến. Từ Đầu Công nguyên, Cấm Khê (Ba Vì - Sơn Tây) đã trở thành một địa thế căn cứ địa kháng chiến của Hai Bà Trưng. Dựa vào đó, quân đội của Trưng Vương đã cầm cự với quân Mã Viện trong hai, ba năm liền. Giữa thế kỷ thứ VI, Triệu Quang Phục đã lập địa thế căn cứ ở đầm Dạ Trạch, "làm kế trì cửu chiến", tạo ra thời cơ đánh thắng quân Lương. Sang đầu thế kỷ XV, những lãnh tụ của nghĩa quân Lam Sơn đã chọn Nghệ An làm đất đứng chân để xây dựng và phát triển lực lượng, tiến lên giải phóng toàn nước. Như vậy, từ sớm, ông cha ta đã nhận thức được rằng, muốn khởi nghĩa và kháng thắng lợi lợi, phải xây dựng địa thế căn cứ địa hay đất đứng chân của tớ. Có thể đấy là những vùng có địa hình hiểm trở, thuận lợi cho hoạt động và sinh hoạt giải trí của ta và gây trở ngại vất vả cho quân địch, hay là những địa bàn đất rộng, người đông, đủ những yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là quan điểm, tư tưởng tiến bộ.
Thứ năm là, tư tưởng nghệ thuật và thẩm mỹ quân sự "dĩ đoản chế trường", "dĩ quả địch chúng dĩ nhược chế cường” (lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh). Người Việt từ buổi đầu giữ nước đã biết lánh sức mạnh mẽ và tự tin của giặc, dùng lối đánh phục kích, tập kích, ngày ẩn, đêm hiện để tiêu hao địch và tạo ra thời cơ phản công giành thắng lợi (kháng chiến chống Tần, kháng chiến chống Lương). Đặc biệt, trong kỷ nguyên Đại Việt, trong hai lần chống Tống, ba lần chống Mông - Nguyên và trong trận chiến tranh giải phóng chống quân Minh, tư tưởng nêu trên trở nên phổ biến và được vận dụng thành công. Cách đánh của Trần Quốc Tuấn đã phát huy tốt cái "sở đoản" của quân đội nhà Trần và hạn chế cái "sở trường" của giặc Mông - Nguyên. Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi luôn chủ trương: "lánh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh nơi vững chắc, đánh nơi sơ hở (của địch)"; Nguyễn Trãi cũng chủ trương: "Công kỳ vô bị!" tức là đánh địch khi chúng không phòng bị. Chính vì vậy, trong khởi nghĩa và trận chiến tranh giải phóng, Lê Lợi thường "dùng sức một nửa mà công được gấp hai" và đã thắng lợi. Đó là tư tưởng kế hoạch và giải pháp thích hợp nhất với thực trạng một nước nhỏ phải thường xuyên chống lại những quân địch vững mạnh, quân nhiều.
Thứ sáu là tư tưởng nhân nghĩa, nhân văn quân sự trong trận chiến tranh. Nhìn chung, trong quan hệ đối ngoại quân sự, ông cha ta luôn có cách ứng xử đúng đắn. Trên cơ sở sức mạnh chính trị, kinh tế tài chính và quân sự, nhiều triều đại phong kiến quá trình này đã chủ trương một đường lối đối ngoại quân sự khôn khéo, đúng mực đối với lân bang. Đó là mềm dẻo, nhún phương có nguyên tắc với nước lớn; khoan hòa, linh hoạt nhưng cứng rắn với nước nhỏ, với tiềm năng giữ vững hòa hiếu, duy trì hòa bình xây dựng đất nước. Trong trận chiến tranh thì tìm cách hòa hoãn, tránh trận chiến tranh và để có thời gian sẵn sàng sẵn sàng lực lượng; biết phối hợp giữa quân sự với chính trị, ngoại giao và binh vận. Khi đã thắng lợi thì dữ thế chủ động "bàn hoà" (thời Lý) hay "mở đường hiếu sinh" cho kẻ địch bị bắt, nhằm mục đích mục tiêu như Nguyễn Trãi viết:
"Nghĩ về kế lâu dài của nhà nước,
Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh.
Sửa hòa hiếu cho hai nước,
Tắt muôn đời trận chiến tranh".
Đó là tư tưởng kết thúc trận chiến tranh mang đậm tinh thần đại nghĩa và nhân văn của dân tộc bản địa Việt Nam. Tư tưởng quân sự của ông cha ta trong quá trình này còn tồn tại những nội dung khác... Nhìn chung, đó là những quan điểm, tư tưởng tiến bộ. Tuy nhiên, cũng luôn có thể có những thời kỳ, triều đại, những người dân lãnh đạo kháng chiến đã mắc sai lầm trong tư duy, tư tưởng kế hoạch, dẫn đến thất bại trước quân địch, như thời An Dương Vương chống Triệu Đà và thời Hồ chống quân Minh.
Tư tưởng quân sự mỗi thời kỳ, mỗi triều đại đều có những đặc trưng riêng, nhưng nhìn tổng thể thì nội dung tư tưởng hầu như đều có tính nối tiếp, thừa kế và tính thống nhất tương đối. Mỗi triều đại đều có những đóng góp đáng kể cho việc phát triển của lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam. Tư tưởng quân sự mỗi triều đại được biểu lộ tập trung và nổi bật trong tư duy, tư tưởng quân sự độc đáo của những nhà lãnh đạo đất nước, những nhà quân sự kiệt xuất - những nhân vật nổi tiếng đóng vai trò quyết định trong những cuộc khởi nghĩa và trận chiến tranh chống ngoại xâm. Mỗi quá trình lịch sử đều xuất hiện những nhà tư tưởng quân sự kiệt xuất. Nét đặc sắc trong tư tưởng quân sự của Hai Bà Trưng là quy tụ sức mạnh mẽ và tự tin của toàn dân dưới ngọn cờ yêu nước, tiến hành tổng khởi nghĩa đồng thời trên phạm vi toàn nước, kết phù phù hợp với đòn quyết định về quân sự của nghĩa quân đánh vào trung tâm đầu não của địch, nhanh gọn giành thắng lợi. Nét đặc sắc trong tư tưởng quân sự Ngô Quyền là sự việc quy tụ những yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa để tạo lực, lập thế, tranh thời và tạo sự chuyển hóa cả về thế, thời và lực để thực hiện tiêu diệt kế hoạch bằng trận quyết chiến kế hoạch trên sông Bạch Đằng năm 938, tiêu diệt đạo quân nòng cốt trọng yếu của địch, đánh tan ý chí xâm lược của nhà Nam Hán, kết thúc trận chiến tranh; đồng thời chấm hết thời kỳ Bắc thuộc hơn một nghìn năm, mở ra thời kỳ phát triển độc lập của dân tộc bản địa. Nét đặc sắc trong tư tưởng quân sự của Lý Thường Kiệt là tư tưởng tiến công rất cao, luôn dữ thế chủ động, tích cực và liên tục tiến công kế hoạch bằng lực lượng nòng cốt cơ động mạnh với lực lượng vũ trang địa phương, đánh đòn phủ đầu quân xâm lược "tiên phát chế nhân" và trong tình thế bị quân địch tiến công đã tổ chức phòng ngự kế hoạch tích cực, nhất quyết phản công kế hoạch khi thời cơ đến để đánh bại quân địch. Nét đặc sắc trong tư tưởng quân sự Trần Quốc Tuấn là dữ thế chủ động rút lui kế hoạch và phản công kế hoạch, nhờ vào dân và phát động trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, vây hãm, chia cắt và đánh tiêu hao, từng bước đưa địch vào thế khốn quẫn, tạo thế và lực để thực hành phản công kế hoạch bằng những đạo quân nòng cốt mạnh, đánh trận quyết chiến kế hoạch, đánh tan ý chí xâm lược của địch, kết thúc trận chiến tranh. Nét đặc sắc trong tư tưởng quân sự của Lê Lợi - Nguyễn Trãi là tư tưởng chỉ huy "lấy dân làm gốc", "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn", giương cao ngọn cờ đại nghĩa, phát động khởi nghĩa toàn dân, trận chiến tranh nhân dân, phối hợp giữa đấu tranh chính trị với tiến công quân sự ngoại giao và địch vận, đánh vào lòng người (công tâm), đánh thắng từng bước, chuyển hóa lực lượng và thế trận, đánh trận quyết chiến kế hoạch, kết thúc trận chiến tranh có lợi nhất cho việc phát triển lâu dài của đất nước... Tóm lại tư tưởng quân sự Việt Nam từ thế kỷ III Tr. CN đến đầu thế kỷ XV trải qua nhiều quá trình phát triển.
Giai đoạn Hùng Vương - An Dương Vương và quá trình Bắc thuộc là quá trình buổi đầu hình thành những tư duy, tư tưởng quân sự. Đó là tư duy quân sự buổi đầu dựng nước và giữ nước; là tư duy, tư tưởng quân sự khởi nghĩa và trận chiến tranh chống Bắc thuộc. Giai đoạn đất nước độc lập từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV là quá trình xuất hiện và phát triển nhiều quan điểm, tư tưởng quân sự tiến bộ, thậm chí có những quan điểm, tư tưởng tiên tiến vượt thời đại. Chính đó là cội nguồn tạo nên sức mạnh đánh giặc, giữ nước trong quá trình này.
Tuy thực tiễn lịch sử đã lùi xa, nhưng những nội dung tư tưởng quân sự nêu trên vẫn có mức giá trị không bao giờ thay đổi, nó có ý nghĩa thực tiễn lớn. Đó là cơ sở để ông cha ta trong những quá trình lịch sử tiếp theo thừa kế và phát triển. Đó là những giá trị tinh thần, tư tưởng vô cùng quý giá, được những thế hệ sau trân trọng gìn giữ, thừa kế và vận dụng trong sự nghiệp đánh giặc, giữ nước của tớ.