Kinh Nghiệm Hướng dẫn Nghị luận về văn bản Trong lòng mẹ 2022
Hoàng Quốc Trung đang tìm kiếm từ khóa Nghị luận về văn bản Trong lòng mẹ được Update vào lúc : 2022-07-12 10:44:02 . Với phương châm chia sẻ Kinh Nghiệm về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi đọc tài liệu vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.
Hướng dẫn
Nội dung chính- 2. Tóm tắt tác phẩm 3. Xuất xứ, ý chủ yếu II. Cảm nhận của em về hình ảnh đứa con mồ côi trong đoạn trích "Trong lòng mẹ"
Nhà thơ Đào Cảng nhận xét về nhà văn Nguyên Hồng:
“Anh đơn giản như kỳ quặc. Một chiếc áo sơ mi? Xẻ rách vá vá cũng không sao!”
“Tình cảm, tôi thường dễ khóc,
Trải qua nhiều nỗi đau và lòng trắc ẩn. “
Những câu thơ trên đã tóm tắt những nét chính về lối sống và tâm hồn của nhà văn Nguyên Hồng. Do một tâm hồn giàu cảm xúc, cũng như một phong cách nghệ thuật và thẩm mỹ độc đáo, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng đã để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc. Hình ảnh cô nàng Hồng trong đoạn trích Trong lòng mẹ hiện lên với thực trạng đáng thương và nhiều phẩm chất cao quý.
Trước hết, tất cả chúng ta thấy bé Hồng trải qua rất nhiều nỗi đau: nỗi đau cha mất, tiếng tang cha vẫn thường trực trên đầu em; đau đớn vì người mẹ quá đau khổ phải bỏ con tha hương kiếm ăn, không còn thời cơ viết thư, gửi quà cho con; đau khổ vì phải sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo khó và không nơi nương tựa bên cha mẹ giàu sang nhưng tấm lòng nghèo khó. Nhưng nỗi đau lớn số 1 trong cuộc sống của bé Hồng là thiếu thốn tình thương, nhất là tình thương bát ngát của người mẹ hiền. Từ khi mẹ Hồng bỏ đi biệt xứ, anh chưa một lần được nghe tin tức từ mẹ. Bé Hồng luôn nghĩ đến hình bóng thân yêu của mẹ mà nước mắt cứ tuôn rơi. Biết được tâm lý của bé Hồng, người cô không những không yêu thương, thông cảm, chia sẻ với bé Hồng mà còn cố ý gây đau đớn để hành hạ, hành hạ bé Hồng về tinh thần. Dì tôi có vẻ như quan tâm tôi: “Hồng ơi! Con có mong ước về Thanh Hóa chơi với mẹ không?”.
Bé Hồng tuy còn nhỏ nhưng bằng những cảm nhận tinh tế của tớ, bé cũng hiểu dì là người giả tạo, nhẫn tâm và độc ác. Bé Hồng phản hồi: “Dì em cứ đặt nghi ngờ để em khinh thường và ruồng bỏ mẹ em, một người đàn bà phải bỏ vì cái tội góa chồng, 11Ợ nợ nần và quá túng thiếu cho con đi. ra nước ngoài tìm kiếm thức ăn ”. Bà ngoại càng nói xấu mẹ, bé Hồng càng đau xót, thương cảm và thương mẹ. Trái tim bé như thắt lại, khóe mắt “rưng rưng”, nước mắt “chảy dài hai bên khóe miệng rồi ướt đẫm cằm và cổ”. Hành động “dở khóc dở cười” của em bé là đỉnh điểm của nỗi đau. Bé Hồng đả kích kịch liệt một xã hội đầy hủ tục, bất công và xấu xa, đã dồn mẹ vào chân tường. Xã hội này sẽ không thừa một người phụ nữ chưa hết tang chồng đã chửa hoang. Đứa bé khóc thầm nghĩ: “Giá như những cái chum thông thường bắt bớ mẹ là một vật như hòn đá hay mảnh thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết định lấy ngay, nhai và nghiền cho tới lúc thành. hết thời gian. Chỉ bị vỡ vụn.
Thế rồi, sau chuỗi ngày dài đau khổ, bé Hồng cũng luôn có thể có một niềm niềm sung sướng lớn lao: được hội ngộ mẹ và được trở về “trong lòng mẹ”. Mẹ Hồng về đúng ngày giỗ đầu của chồng. Sau bài học kinh nghiệm tay nghề, “bỗng thấy một nhân vật ngồi trên xe kéo giống mẹ”. Hồng gọi mẹ trong trạng thái “nửa thực, nửa mê” “Mẹ ơi! Dì! Dì!
Xem thêm: Bình luận xã hội về vấn đề rác thải
Giả sử người đó không phải là mẹ của bé Hồng, đứa bé sẽ xấu hổ, hụt hẫng và chua xót như “ảo ảnh về một làn nước trong vắt chảy dưới bóng người hiện ra trước đôi mắt gần như thể nứt ra của người đi đường đang gục ngã giữa sa mạc”. Hồng tự so sánh mình như một “kẻ đi đường” giữa sa mạc mênh mông, vắng bóng người qua lại. Và trên sa mạc, rất khó để lấy nước. Vì vậy, một lữ khách khao khát nước như cậu bé Hồng luôn mong mỏi từng giây từng phút được hội ngộ người mình yêu nhất trong đời. Bé Hồng “đội quần, mồ hôi trán”, “bò cả hai chân” khi đuổi kịp mẹ lên xe. Rose bật khóc. Mẹ của đứa bé cũng khóc nức nở. Hai mẹ con gặp nhau trong nụ cười và nỗi buồn. Sau những phút bấn loạn, bé Hồng tỉnh táo lại và nhận ra vẻ đẹp duyên dáng của mẹ với khuôn mặt “sáng”, “đôi mắt trong veo và làn da mịn màng, nổi bật lên màu hồng phấn chơi vơi”. Trong niềm niềm sung sướng và ngất ngây, bé Hồng cảm thấy mẹ đẹp gấp bội. Bé Hồng đã được phục hồi tinh thần sau thuở nào gian bị dồn nén tâm lý. Em bé cảm nhận được rằng “cảm hứng ấm áp đã mất từ lâu đột nhiên vuốt ve khắp nơi trên da.” Đồng thời, anh nhận ra cái thân quen của mẹ như thuở còn nằm nôi: “Khẽ níu áo mẹ, hơi thở của chiếc miệng nhai trầu xinh xắn nhả ra thời điểm hiện nay thơm lạ thường”.
Ngoài ra, bé Hồng còn tập trung mạnh mẽ và tự tin mọi giác quan của con người để diễn tả sự tận hưởng những khoảng chừng thời gian ngắn tận hưởng khi nằm trong lòng mẹ: “Con phải nhỏ mà lăn vào lòng mẹ, mặt đối mặt. Dòng sữa ấm áp của mẹ, hãy để bàn tay bỉm sữa của mẹ thổi từ trán, vào cằm, cạo vôi răng, chỉ thấy mẹ mềm mại và mượt mà đến tột cùng. Nhà văn Thạch Lam đã gọi cảm hứng đó là “rung cảm tột cùng của một tâm hồn trẻ thơ”, đó là nguyên do khi bé Hồng về nhà. Từ khi đi học, anh không nhớ được mẹ mình hỏi gì và trả lời gì, đây cũng là những cảm xúc tự nhiên của con người khi nhìn thấy một người mẫu.
có lợi cho niềm sung sướng. Đối với Hồng, niềm sung sướng dù giản đơn cũng là niềm sung sướng. Có thể nói, cảnh hai mẹ con gặp nhau còn đẹp hơn hết phim nóng tại trường quay. Rất khó để một diễn viên nổi tiếng hoàn toàn có thể đóng vai này. Vì cảnh này thật hơn thực tế. Một số nhà lý luận văn học nhận định rằng, những nhân vật trong tác phẩm có lúc còn thật hơn khắp cơ thể thật. Nhân vật chú bé Hồng là một điển hình cho nhận xét này.
Tóm lại, thực trạng trở ngại vất vả của Hồng và tình yêu thương mẹ vô bờ bến đã khiến trái tim cô loạn nhịp. Em rất căm thù cái xã hội xấu xa, thấp hèn mà cô nàng Hồng đang sống – một xã hội thực dân nửa phong kiến bất công, chỉ đặt đồng tiền lên số 1. Xã hội này đầy rẫy những hủ tục, bất nhân, tàn ác đến mức “chuông nhà thời thánh chỉ vì đầm Tây” và nhà giàu “ráng về, vệ sướng”.
Đêm đông thường lạnh nhưng quan hệ họ hàng trong xã hội này còn lạnh hơn đêm đông
Nguồn: Vietvanhoctro.com
Xem thêm: Thuyết trình cho nông dân
Nguyễn Nguyên Hồng, bút danh là Nguyên Hồng, sinh năm 1918 và mất năm 1982. Ông sinh ở thành phố Tỉnh Nam Định, nhưng Hải Phòng Đất Cảng - cửa biển đã khơi dậy
và gắn bó với cuộc sống và sự nghiệp văn chương của ông. Chưa học hết Tiểu học nhưng nhờ tự học, sống từng trải và giàu tình nhân ái mà Nguyên Hồng đã trở thành một cây bút đặc sắc, độc đáo của nền văn học Việt Nam tân tiến.
Tác phẩm gồm có: Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, Cửa biển (4 tập) và tập thơ Trời xanh cùng rất nhiều truyện ngắn khác.
Nhớ Nguyên Hồng, người ta hay nhắc tới bài thơ "Cửu Long Giang ta ơi!" và 2 tác phẩm đầu tay của ông: "Bỉ vỏ", "Những ngày thơ ấu". Những rung động mãnh liệt, chân thành, những trang đời đầy mồ hôi và nước mắt vừa giàu giá trị hiện thực, vừa chứa chan tinh thần nhân đạo của trang văn Nguyên Hồng từng làm xúc động lòng người gần xa.
2. Tóm tắt tác phẩm
"Những ngày thơ ấu" là cuốn hồi kí của Nguyên Hồng. Tác phẩm gần đầy một trăm trang, khoảng chừng trên 2 vạn chữ, phân thành 9 chương: 1, Tiếng kèn; 2, Chúa thương xót chúng tôi; 3, Trụy lạc; 4, Trong lòng mẹ; 5, Đêm Nô-en; 6, Trong đêm đông; 7, Đồng xu cái; 8, Sa ngã; 9, Một bước ngắn.
Trang hồi kí đã ghi lại cảnh sa sút, tan nát của một mái ấm gia đình thị dân ở thành phố Tỉnh Nam Định trong khoảng chừng trong năm hai mươi, ba mươi của thế kỉ 20. Những nỗi đau buồn của một thiếu phụ trong một cuộc hôn nhân gia đình miễn cưỡng, một người chồng, người cha nghiện ngập, những tủi cực, đơn độc và con phố lêu lổng của một em bé mồ côi, rồi sa ngã dần. Câu chuyện cảm động được tóm tắt như sau:
"Bà nội của bé Hồng đi đạo, sinh nở 18 lần, nhưng chỉ nuôi sống được 3 người con: một trai, hai gái. Bố của bé Hồng là con thứ hai. Bố của Hồng làm cai ngục; khi bé Hồng sinh ra, có biết bao nhiêu người nhà đất của phạm nhân mang lại nhiều vàng bạc, lụa là, gạo thơm, gà béo, trứng mới, cá biển tươi để mừng. Vú bõ thì hả hê vì có số tốt được hầu hạ một cửa "quyền quý". Sau này, mỗi lần bà nội nhắc lại chuyện ấy "có nhiều sự cảm động lắm". Mẹ Hồng là một phụ nữ xinh đẹp, chỉ bằng một nửa tuổi của bố em. Năm Hồng lên bảy, lên tám đã hiểu biết rỗ rệt và thấm thía "sự trái ngược cay đắng" trong tình duyên của bố mẹ. Em vẫn nghe người ta buôn chuyện về chuyện em Quế là con của cai H. Cứ chiều chiều, khi tiếng kèn "rộn rã, tưng bừng" của toán lính khố xanh đi qua nhà, đôi mắt mẹ Hồng lại "sáng lên", gò má "ửng hồng", dắt đứa con trai nhỏ bé ra sân đón đợi "một người tầm thước, khuôn mặt trắng hồng, mắt sáng, sống mũi hơi cao, hai hàm răng trắng phau"... Mấy năm sau, người cai kèn đổi đi nhà ngục khác, người thiếu phụ ấy "càng bâng khuâng trong đôi mắt thẫn thờ"... Và cũng từ đấy, bố mẹ Hồng "không bao giờ nhìn thẳng vào mặt nhau"; trong con mắt, giọng nói "bao giờ cũng đượm vẻ trầm lặng, chua chát, hờn tủi".
Gia đình sa sút rồi suy sụp hẳn. Bố xin thôi nghề cai ngục, lôi bàn đèn thuốc phiện về nhà, sống âm thầm trong buồng tối. Nhiều tài sản quý giá đều bán sạch. Mẹ marketing thương mại thua lỗ. Năm 1927, ngôi nhà gạch 2 tầng ở phố Hàng Cau, thành phố Tỉnh Nam Định phải bán đi để trả nợ. Bố trụy lạc, con lêu lổng, thong thả đánh đáo để có tiền ăn quà, giao du với những trẻ bụi đời cùng khổ.
Rằm tháng tám trung thu năm sau, khi bà con hàng phố "hoan hỉ trước bàn cỗ trông trăng" thì bé Hồng và em Quế trong bộ quần sô sổ gấu, đi theo sau chiếc quan tài, cất tiếng khóc não nuột: "Cậu ơi, hư hư cậu ơi là cậu ơi!".
Bố chết chưa đoạn tang, mẹ lần hồi ngược xuôi, lúc lên Tp Hà Nội Thủ Đô, lúc vào Vinh, lúc xuống Hải Phòng Đất Cảng, để vay mượn làm vốn marketing thương mại. Rồi mẹ chửa đẻ với người khác, tha phương cầu thực vào tận Thanh Hóa. Hồng và em Quế phải ăn chực nằm chờ ở nhà bà cô giàu sang, bị bêu riếu khinh miệt, thậm chí có lần bé Hồng đã bị cô C. "vác củi tạ phang... lết chân đi không được nữa". Nhiều đêm, nhiều tháng, Hồng chỉ từ biết sống với những giấc mơ "mong manh, kì thú" của tuổi thơ.
Đêm Nô-en, với bộ quần áo chúc bâu mỏng dính và chiếc áo chùng thâm đã toạc vai, trong làn gió lạnh, bé Hồng cũng đến nhà thời thánh, em cố lách đám đông để hoàn toàn có thể nhìn thấy bàn thờ cúng Chúa, nhưng đã bị người ta đẩy xuống hoặc cốc lỗ đầu. Em phải ra khỏi nhà thời thánh, lủi thủi một mình giữa đêm khuya lạnh lẽo. Rồi những đêm đông mưa phùn, gió vi vu lạnh buốt, nằm trên cái phản trong xó nhà tăm tối của cô C. nơi Bến Gỗ, đắp cái chăn đơn mỏng dính ngoài trùm chiếc chiếu, bé Hồng co rúm lại, ngực đau nhói lên, trằn trọc thao thức từ gà gáy cho tới sáng. Nước mắt cứ ứa ra...
Bé Hồng sống trong đơn độc, không người chăm sốc, tâm trí lơ đãng trong giờ học. Một đồng xu cái trong túi, suốt ngày tang thang khắp những cổng chợ, vườn hoa, bến tàu,... để đánh đáo, chẳng bao lâu được bạn học và lũ trẻ bụi đời đặt cho cái biệt hiệu "Bật câu cơm", một thương hiệu mỉa mai mà Hồng không hề hổ thẹn. Càng ngày càng sa ngã. Nhiều đêm bỏ nhà đi thong thả. Một ngày hè tủi cực đã đến: bị thầy giáo đánh đập, bắt quỳ vào góc bảng hết buổi học này qua buổi học khác. Oan uổng và đau khổ. Phải bỏ học trước nhục hình cay đắng. Mùa hè năm ấy, bé Hồng 13 tuổi, phải bỏ học "khi cái bàn tay của thầy giáo đã dúi tôi vào góc tường hình phạt và không bao giờ nhấc cho tôi lên nữa. Tôi vùng đứng dậy, mê man chạy như biến ra đường" khi tiếng trống lần thứ hai bổng nổi dậy...
3. Xuất xứ, ý chủ yếu
Nguyên Hồng viết "Những ngày thơ ấu" vào năm 1938, khi ông vừa tròn 20 tuổi. Đây là tác phẩm thứ hai của ông. Tập hồi kí gồm có 9 chương: 1. Tiếng kèn; 2. Chúa thương xót chúng tôi; 3. Trụy lạc; 4. Trong lòng mẹ; 5. Đêm Nô-en; 6. Trong đêm đông; 7. Đồng xu cái; 8. Sa ngã; 9. Một bước ngắn.
- "Trong lòng mẹ" là chương 4 của hồi kí "Những ngày thơ ấu".
- Nỗi đau bị sỉ nhục, nỗi buồn đơn độc và lòng thương nhớ mẹ, kính yêu mẹ của một đứa bé mồ côi bố sau hơn thuở nào gian dài xa cách mẹ rồi được hội ngộ mẹ.
II. Cảm nhận của em về hình ảnh đứa con mồ côi trong đoạn trích "Trong lòng mẹ"
Năm 1937, trong bài thơ "Mồ côi", Tố Hữu có viết:
"Con chim non rũ cánh
Đi tìm tổ bơ vơ
Quanh nẻo rừng hiu quạnh
Lướt mướt dưới dòng mưa... "
Một năm sau, trên tuần báo Ngày nay, hồi kí ''Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng ra mắt bạn đọc. Nhân vật bé Hồng trong cuốn hồi kí cũng là một "con chim non rã cánh... ". Bố nghiện ngập, mái ấm gia đình sa sút trở nên bần hàn. Bố chết chưa đoạn tang, người mẹ trẻ lại chửa đẻ với người ta, ''nợ nần cùng túng quá", phải bỏ nhà, bỏ quê vào Thanh Hóa kiếm ăn lần hồi. Bé Hồng mồ côi, bơ vơ sống trong sự hờ hững của tớ hàng bên nội. Đến trường thì bị thầy giáo phạt quỳ một cách vô lí oan uổng; đêm Nô-en thì bị người ta hắt hủi đuổi ra khỏi Nhà thờ, em lủi thủi đi dưới làn mưa gió lạnh lẽo...
Đọc ''Trong lòng mẹ", ta phát hiện một bé Hồng rất đáng thương, đáng yêu; trong đau khổ, trái tim thương yêu của em vẫn dành riêng cho những người dân mẹ một cách đằm thắm trọn vẹn.
Mồ côi bố, cái mũ trắng của bé Hồng còn ''quấn hăng đen"; mẹ tha phương cầu thực mãi chưa về. Sống trong cảnh ãn cơm chực gia dinh bên nội, chú còn bị người cô nanh ác, hiểm độc nói xấu mẹ mình. Mẫn cảm và thông minh, bé Hồng đã phát hiện ra ''những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch" của bà cô tàn nhãn. Mặc dù đã non một năm, mẹ không gửi cho một lá thư, không nhắn lời hỏi thăm, không gửi cho con một đồng quà nào. nhung trái tim của em đối với người mẹ đau khổ vẫn trọn vẹn. Bà cô cố ý gieo vào lòng ngây thơ của em "những không tin" để em "khinh miệt và ruồng rẫy mẹ"... Bé Hồng là một đứa con hiếu thảo, cảm thông với cảnh ngộ "góa chồng, nợ nần cùng túng quá phải bỏ con cháu đi tha hương cầu thực" của mẹ mình. Em quyết không để "những rắp tâm tanh bẩn" của bà cô xâm phạm đến "tình thương yêu và lòng kính mến mẹ".
Bao nhiêu nước mắt của bé Hồng đã chảy xuống trước những lời cay độc của bà cô: "Mợ mày phát tài lắm...", "vào mà... thăm em bé chứ", mợ mày "ngồi cho con bú ở bên rổ bóng đèn..., ăn vận rách rưới, mặt mày xanh bủng, người gầy rạc đi...", gặp người quen thì "quay di, lấy nón che"... Mỗi lời nói và giọng cười của bà cô đã làm cho bé trai Hồng vô cùng tủi nhục, đau đớn. Lúc thì em "cúi dầu xuống đất", lòng "thắt lại", khóe mắt "cay cay". Lúc thì nước mắt "ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ". Có lúc, cổ họng em "nghẹn ứ khóc không ra tiếng". Bé Hồng rất thương mẹ, em đã cảm thông với mẹ chưa đoạn tang chồng mà đã chửa đẻ với người khác. Em không trách mẹ mà "căm tức" sao mẹ vì "sợ hãi những thành kiến tàn ác" mà xa lìa đứa con thơ. Lòng thương mẹ của bé Hồng là vô cùng mãnh liệt. Càng thương mẹ bao nhiêu, em càng chán ghét, càng ghê tởm những cổ tục bấy nhiêu: "Giá những cổ tục đã đầy đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đẩu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi".
Phần đầu chương "Trong lòng mẹ", qua nhân vật bà cô độc địa, xấu xa, hình ảnh bé Hồng càng trở nên đáng yêu đáng trọng. Những làn nước mắt của em chứa chan bao tình thương mẹ, một người mẹ đau khổ mà đôn hậu.
Phần cuối chương "Trong lòng mẹ" nói lên niềm sung sướng của bé Hồng được hội ngộ mẹ hiền sau một năm dài xa cách. Đến ngày giỗ đầu của bố, em chẳng viết thư cho mẹ thì mẹ cũng về. Thương mẹ nhiều, nhớ mẹ lắm, tin yêu mẹ nên bé Hồng mới có linh cảm khi "chợt thoáng thấy một hóng người ngồi trên xe kéo giống mẹ" mình, liền đuổi theo gọi rối rít: "Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ ơi!"... Nỗi khát khao gặp mẹ của bé Hồng khác nào người bộ hành giữa sa mạc khao khát "một làn nước trong suốt chảy dưới bóng râm"... Như một cảnh dào dạt nụ cười. Xe chạy chầm chậm. Mẹ cầm nón vẫy con. Con chạy kịp, thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi. Vui sướng cảm động, con trèo lên xe mà "ríu cả chân lại". Mẹ kéo tay con, xoa đầu con; con "nức nở", mẹ cũng "sụt sùi". Đã bao lâu rồi bé Hồng lại được nghe lời yêu thương của mẹ hiền: "Con nín di! Mợ đã về với những con rồi mà". Bao cử chỉ thân thương trìu mến hòa quyện tình mẹ con. Mẹ "xốc nách" con lên xe, rồi lấy vạt áo nâu "thấm nước mắt" cho con. Con ngắm nhìn và thưởng thức khuôn mặt mẹ. Mẹ "không còm cõi xơ xác" như người cô đã nói. Gương mặt mẹ "vẫn tươi sáng", đôi mắt mẹ "trong", "nước da mịn tàm nổi bật màu hồng của hai gò má". Một mùi "thơm tho lạ thường" phả ra từ quần áo, từ hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu của mẹ. Con vô cùng sung sướng được "đầu ngả vào cánh tay mẹ... thấy những cảm hứng ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt mình".
Từ miêu tả rõ ràng những rõ ràng, tình tiết của hai mẹ con hội ngộ nhau sau một năm dài xa cách, bé Hồng với tâm hồn trong sáng ngây thơ và giàu lòng hiếu thảo, em đã thổ lộ nụ cười sướng niềm sung sướng của đứa con được sống trong lòng mẹ: "Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ... mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng". Sự êm dịu ấy đã được khơi nguồn từ tình mẫu tử bát ngát. Câu nói ấy của bé Hồng đã đem đến cho ta nhiều chân cảm. Bé Hồng mồ côi, hiếu thảo, rất thương yêu mẹ mới dạt dào chân cảm ấy.
"Trong lòng mẹ" là những trang hồi kí cảm động. Nhân vật bé Hồng trong đau khổ xa cách mẹ, trong cay đắng khi bà cô nói xấu mẹ, trong nụ cười sướng niềm sung sướng tột độ được hội ngộ mẹ hiền, được mẹ vỗ về an ủi, đều sáng bừng lên một trái tim yêu thương thiết tha, chân thành, những "rung dộng cực điểm của một linh hồn trẻ dại" (Thạch Lam). Giọt nước mắt của bé Hồng là giọt nước mắt của một đứa con hiếu thảo. Trong thảm kịch mái ấm gia đình, thảm kịch tuổi thơ, em càng thương mẹ hơn bao giờ hết.
Đoạn văn ghi cảnh bé Hồng hội ngộ mẹ là hay nhất, cảm động nhất. Bé Hồng là hình ảnh đáng thương và đáng yêu của bài ca "Trong lòng mẹ".