Mẹo Hướng dẫn Nhận định của Hoài Thanh về Tản Đà 2022
Bùi Thị Kim Oanh đang tìm kiếm từ khóa Nhận định của Hoài Thanh về Tản Đà được Update vào lúc : 2022-09-01 23:30:11 . Với phương châm chia sẻ Kinh Nghiệm Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi đọc Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại phản hồi ở cuối bài để Admin lý giải và hướng dẫn lại nha.
Đề thi học viên giỏi: Chứng minh nhận định của Hoài Thanh về thơ Xuân Diệu
Nội dung chính- Thiếu niênThời kỳ vinh hiểnCuối đời lận đậnĐược tôn vinh và qua đờiCon người của Tản ĐàDịch thuật, nghiên cứuCâu nói nổi tiếngThơ đục vào đáNhận xétVideo liên quan
Đề thi học viên giỏi: Chứng minh nhận định của Hoài Thanh về thơ Xuân Diệu
Đề bài : Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét : “Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến . Người đã tới giữa tất cả chúng ta với một y phục tối tân và tất cả chúng ta đã rụt rè không thích kết thân với con người dân có hình thức phương xa ấy . Nhưng rồi ta cũng quen dần , vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng”Trình bày ý kiến của anh (chị) về nhận xét trên
Gợi ý :
Những ý chính :1.Ý nghĩa câu nói của Hoài ThanhXuân Diệu đến với thơ ca và có những đóng góp mới mẻ về thi pháp với những cải cách nghệ thuật và thẩm mỹ giàu sáng tạo . Nhưng sự cải cách của XD vẫn có gốc rễ rất sâu trong thư ca truyền thống .-Xuân Diệu là một trí thức Tây học , đã hấp thụ ảnh hưởng của tư tưởng và văn hoá Pháp .Đối với thơ ca Pháp , ông đặc biệt chịu ràng buộc của trường thơ tượng trưng .-Thơ Xuân Diệu thể hiện quan hệ tương giao Một trong những giác quan cùng tính nhạc của thơ . Ông là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời . Niềm say mê ngày xuân , tuổi trẻ , tình yêu ở Xuân Diệu đã dẫn đến một cải cách đặc sắc về cảm hứng , thi tứ , bút pháp ; xây dựng hình ảnh , cú pháp , nhịp điệu …
+Trước Cách mạng tháng Tám , đóng góp của Xuân Diệu không phải là ở đề tài mà nét đặc sắc của Xuân Diệu là ở cảm hứng :
Cô đơn , trước nay là vì thiếu vắng con người , thiếu vắng một chiếc gì bầu bạn. Tản Đà đơn độc vì “Suông rượu , suông tình , bạn cũng suông” . Và Nguyễn Bính thì “Cô đơn buồn lại thêm buồn / Tạnh mưa bươm bướm có còn sang chơi” . Nhưng Xuân Diệu thì lại khác , dù có người , có vật , có cảnh bên tôi cũng vẫn là “quần đảo đơn độc” :Dù tin tưởng chung một đời một mộng Em vẫn là em , anh vẫn cứ là anh Có thể nào qua vạn lí trường thành Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
(Xa cách )
Tình yêu trong thơ Xuân Diệu không diễn tả bóng gió , ước lệ tượng trưng như trước kia mà nói một cách rõ ràng , đầy đủ với ý nghĩa tình yêu gồm có cả tâm hồn và thân xác : “Đây gối lả .Tay em đây , mời khách ngả đầu say”, “Mình em không được quấn chân anh / Sát đôi vai, kề đôi ngực / Trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài”Thiên nhiên trong thơ xưa thường được tiếp nhận bằng thị giác , ít nhiều bằng thính giác nhưng Xuân Diệu thưởng thức thiên nhiên không dừng lại ở đó mà còn cả bằng xúc giác :Tôi để da tay ý dịu tràn Gửi vào cây cối chút mơn man Chân trần sung sướng nghe da đấtTôi nhận xa xôi của dặm ngàn(Đi dạo )
Và cả bằng vị giác : “Hương hiu hiu nên gió cũng ngọt ngào”
Xuân Diệu thường nhân hoá thiên nhiên một cách táo bạo . Nhà thơ gắn cho thiên nhiên những tâm tư , hành vi , tâm trạng “rất người” một cách tự nhiên , hợp lý :“Bữa nay lạnh , mặt trời đi ngủ sớm”“Đêm bâng khuâng đôi miếng lẩn trong cành”“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
+Xuân Diệu ảnh hưởng của thơ Pháp thế kỉ XIX về cách diễn đạt , nhịp điệu , cú pháp … nên cách diễn đạt của Xuân Diệu quá mới đối với người đọc Việt Nam lúc bấy giờ :
Hôm nay tôi đã chết trong người Xưa hẹn nghìn năm yêu mến tôi
( Ý thơ )
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh ( Đây ngày thu tới )+ Xuân Diệu cũng lục tìm , sáng chế những từ mới :“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc”“Cành biếc run run chân ý nhi”“Em vui đi răng nở ánh trăng rằm”-Nhưng sự cải cách của Xuân Diệu vẫn có nguồn gốc của thơ ca truyền thống mà Hoài Thanh gọi đó là “tình đồng hương vẫn nặng” . Bởi lẽ Xuân Diệu là con của một ông tú kép nên có điều kiện tiếp xúc và sớm hiểu biết văn chương cổ xưa . Bản thân Xuân Diệu hấp thụ một cách tự nhiên ảnh hưởng của nền văn hoá truyền thống trong quá trình học tập , sinh sống ( ông từng học ở Qui Nhơn , Huế , Tp Hà Nội Thủ Đô và có thời gian công tác thao tác ở Mĩ Tho ) . Ông tìm đến thơ ca tân tiến Pháp vì nó hoàn toàn có thể diễn tả chân thực những khát khao mãnh liệt của lòng mình nhưng Xuân Diệu vẫn gắn bó với thơ ca dân tộc bản địa :+ Có lúc những từ ngữ Xuân Diệu lựa chọn thật giản dị, mộc mạc :Anh bước điềm nhiên không vướng chân Anh đi lững thững chẳng theo gần Vô tâm nhưng giữa bài thơ lạ Anh với em như một cặp vần ( Thơ duyên )
+Những biệp pháp tu từ thường thấy trong thơ ca truyền thống :
Cách dùng điệp ngữ , điệp từ :“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sắp già” “Của ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtVà này đây ánh sáng chớp hàng mi”
( Vội vàng )
Có lúc phát huy tối đa từ láy trong vốn từ tiếng Việt : “ Những luồng run rẩy rung rinh lá”2.Nhận xét-Nhận định của Hoài Thanh là xác đáng , nhà phê bình đã thấy được ở nhà thơ Xuân Diệu –Một nhà thơ tiên tiến nhất trong những nhà thơ mới- cạnh bên những nét mới lạ, có vẻ như rất phương Tây là một “ tình đồng hương vẫn nặng” nghĩa là vẫn rất Việt Nam . Đây đó đó là nét độc đáo của Xuân Diệu nói riêng và của phong trào Thơ mới nói chung .
Xem thêm :
Bộ đề thi học viên giỏi Ngữ văn lớp 10-11-12Nghị luận ý kiến bàn về văn họcBài viết gợi ý:Tản Đà (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939[1]) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên gọi ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.
Tản Đà
Tản Đà
Sinh19 tháng 5 năm 1889Khê Thượng, Sơn Tây, Liên bang Đông Dương (nay là huyện Ba Vì, Tp Hà Nội Thủ Đô)Mất7 tháng 6 năm 1939(1939-06-07) (50 tuổi)
Tp Hà Nội Thủ Đô, Việt NamNghề nghiệpnhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch
Ảnh hưởng bởi
- Lý Bạch, Nguyễn Du
Ảnh hưởng tới
- nhiều nhà thơ trong phong trào thơ mới
Trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao 5 cánh sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều nghành. Đi khắp miền đất nước, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Với những dòng thơ lãng mạn và ý tưởng ngông nghênh, đậm đậm cá tính, ông được đánh giá là người sẵn sàng sẵn sàng cho việc ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ xưa và tân tiến".
Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được nghe biết như một người dịch thơ Đường ra ngôn từ Việt hay nhất.
Tản Đà sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 (20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, Thành Thái nguyên niên), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, thành phố Tp Hà Nội Thủ Đô), nguyên quán ở làng Lủ tức làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hợp Đồng Hà Đông (nay là phường Đại Kim, quận Q.. Hoàng Mai, thành phố Tp Hà Nội Thủ Đô).
Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia có nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Sau Gia Long lên ngôi, dòng họ này thề sẽ không đi thi, không làm quan với tân triều. Đến thời cha ông là Nguyễn Danh Kế (阮名繼), do thực trạng mái ấm gia đình cực khổ, lại phải nuôi mẹ già, đành lỗi ước với tổ tiên. Nguyễn Danh Kế thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý, nổi tiếng là người dân có tài năng văn án trong triều. Ông Kế vốn là người phong lưu tài tử, thường lui tới chốn bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền ở phố.
Bà Lưu Thị Hiền (流氏賢) có nghệ danh Nhữ Thị Nhiêm (汝氏蚦), là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao - Tỉnh Nam Định, bà lấy lẽ ông Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường (Tỉnh Nam Định). Bà là người hát hay, có tài năng làm thơ chữ Nôm. Tản Đà là con trai út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.
Trong những người dân anh em còn sót lại, có người anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích, là người dân có nhiều những ảnh hưởng to lớn tới cuộc sống sau này của Tản Đà. Ông Tích sinh năm 1864, nối nghiệp cha đi thi đỗ Phó bảng và ra làm quan. Ông là người thanh liêm chính trực, nên đường hoạn lộ cũng không yên ổn, sau làm ở cục Tu thư, rồi Hiệu trưởng trường Tân Quy, Đốc học Vĩnh Yên. Tản Đà từ nhỏ sống với ông, phải nhiều lần di tán tới những nơi ông Tích được chỉ định: Yên Mô - Ninh Bình, Vụ Bản - Tỉnh Nam Định, Quảng Oai - Sơn Tây, Vĩnh Tường - Vĩnh Yên.
Thiếu niên
Thời niên thiếu của Tản Đà trải nhiều quá trình khóc cười. Năm lên 3 tuổi, bố mất, môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường mái ấm gia đình trở nên cùng túng. Năm sau, vì bất hoà với nhà chồng, bà Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. 8 năm sau, xảy ra chuyện chị ruột ông cũng theo mẹ làm nghề đó (năm Tản Đà 13 tuổi). Những sự kiện đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tâm hồn.
Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ, được ông Tích nhiệt tình khuynh hướng về phía con phố cử nghiệp. Theo hồi ký trong 1 bài thơ thì 5 tuổi ông học Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết,... 6 tuổi học Luận ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích làm văn, lại được anh hết lòng hướng dẫn, nên 14 tuổi đã thạo những lối từ, chương, thi, phú. Lúc còn học ở trường Quy thức - một trường học thực nghiệm cải cách của Pháp mở ở Tp Hà Nội Thủ Đô-, ông viết bài "Âu Á nhị châu hiện thế" bằng chữ Hán, được những báo ở Hồng Kông đăng trong mục xã thuyết. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây.
Giai đoạn niên thiếu của Tản Đà phần lớn dành riêng cho chuyện thi cử, đến năm 19 tuổi, ông mới có những rung tình cảm ái đầu đời. Đó là mối tình với con gái nhà tư sản Đỗ Thận. Năm sau ông lại yêu con gái ông tri huyện phủ Vĩnh Tường. Nhưng 2 mối tình này đều không được trả lời.
Năm 1909 (Kỷ Dậu), ông tham dự kỳ thi hương ở Tỉnh Nam Định, rồi trượt trong lần đi thi đầu tiên này. Ông về lại nhà tại Phủ Vĩnh Tường ôn tập. Trong thời gian này, ông say mê một cô nàng bán tạp hoá ở phố hàng Bồ. Vì nhà nghèo, không còn tiền hỏi cưới, ông đành nuôi kỳ vọng bằng phương pháp tiếp tục đường khoa cử. Kỳ thi xảy đến, ông dùng bằng Ấm sinh để thi hậu bổ, nhưng bị rớt vì môn vấn đáp bằng tiếng Pháp. Mùa thu năm ấy, ông lại đi thi hương, nhưng lại trượt. Chuyện tình với cô bán sách tan vỡ, cô đi lấy chồng. Ông chán nản bỏ về Hòa Bình tìm khuây lãng. Tại đây nhờ việc ra mắt của anh rể là nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế, Tản Đà kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Hai người bạn mới gặp đã như quen, cùng vào dãy Hương Sơn, ngọn Chùa Tiên, đêm ngày uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng, sống theo lối "tịch cốc". Lúc này lần đầu tiên ông đọc Tân thư, sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tìm hiểu về cách mạng Tân Hợi. Nhiều bài thơ và tư tưởng đặc biệt của ông ra đời trong quá trình này.
Năm 1913, anh cả Nguyễn Tài Tích mất. Tản Đà về Vĩnh Yên làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là "Đông Dương tạp chí" của Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách mục "Một lối văn nôm".
Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái ông Nguyễn Mạnh Hương tri huyện ở tỉnh Hợp Đồng Hà Đông, trở thành anh em cột chèo với nhà văn Phan Khôi. Ông Hương là thân sinh của nhà văn Nguyễn Tiến Lãng. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên "Đông dương tạp chí", nhanh gọn đã có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên gọi ghép giữa núi Tản, sông Đà, và chính thức chọn con phố của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp.
Thời kỳ vinh hiển
Khu tưởng niệm Tản Đà tại làng Khê Thượng, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, Tp Hà Nội Thủ Đô
Từ 1915 đến 1926 là trong năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Năm 1915, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ "Khối tình con I".
Sau thành công đó, ông viết liền cuốn "Giấc mộng con" (cho in năm 1917) và một số trong những vở tuồng: "Người cá", "Tây Thi", "Dương Quý Phi", "Thiên Thai" (diễn lần đầu năm 1916 tại Hải Phòng Đất Cảng).
Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra "Nam Phong tạp chí", và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca tụng cuốn "Khối tình con I" và phê phán cuốn "Giấc mộng con I", cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng kỳ lạ trên văn đàn. Sau bài phê phán tư tưởng của "Giấc mộng con", Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và mở một số trong những cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán đó, sự kiện này cũng khá được nhiều giới quan tâm.
Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có "Thần tiền", "Đàn bà Tàu" (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có "Đài gương", "Lên sáu" (1919), "Lên tám" (1920), thơ thì có tập "Còn chơi" (1921). Thời kỳ này ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc, Trung kỳ và làm chủ bút "Hữu thanh tạp chí" thuở nào gian.
Năm 1922, Tản Đà thành lập "Tản Đà thư điếm" (sau đổi thành "Tản Đà thư cục"), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây đã xuất và tái bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; "Tản Đà tùng văn" (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện "Thề Non Nước", 1922); "Truyện thế gian" tập I và II (1922), "Trần ai tri kỷ" (1924), "Quốc sử huấn nông (1924), và tập "Thơ Tản Đà" (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.
Năm 38 tuổi (1926), Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà phát hành "An Nam tạp chí" số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của "An Nam tạp chí", tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã khởi đầu quãng đời lận đận của ông.
Cuối đời lận đận
Tranh biếm của Hoàng Đạo vẽ Tản Đà vừa dạy học vừa uống rượu, với lời thuyết minh "Tản Đà: Các ngài muốn hỏi tôi cách làm thơ ru? Khó gì đâu: tửu nhập thi xuất!)" - đăng trên Phong Hoá.
Thời kỳ đầu làm chủ "An Nam tạp chí", Tản Đà chưa thiếu thốn nhiều, ông thường đi du lịch: khi thì lên đề thơ ở núi Non Nước - Ninh Bình (bài Vịnh hòn đá), khi thì vào trung kỳ thăm Phan Sào Nam, khi thì ở Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ, ra Bình Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về Hải Phòng Đất Cảng sống với con tướng Cần Vương đô thống Thuật. Ông vừa làm báo vừa đi chơi do đó tạp chí "An Nam" cũng ra rải rác, thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, những cuộc đi là để trốn nợ hoặc giải sầu, hoặc là tìm người tài trợ cho báo.
Thời kỳ này ông viết cũng nhiều, những tập "Nhàn tưởng" (bút ký triết học, 1929), "Giấc mộng lớn" (tự truyện, 1929), "Khối tình con III" (in lại thơ cũ), "Thề non nước" (truyện), "Giấc mộng con II" (truyện), lần lượt ra đời.
Năm 1931-1932, Tản Đà có cuộc bút chiến nổi tiếng với Phan Khôi về luân lý và Tống Nho. Ông có câu nói đi vào lịch sử khi phán quyết Phan Khôi: "vu hãm tiên hiền, loạn ngôn hoặc chúng, bại hoại phong quá" và đòi đem Phan Khôi ra Văn Miếu quất roi vào đít. Thời gian này, ông có vào Sài Gòn ít lâu và đảm nhận phụ trương văn chương cho tờ báo của ông Diệp Văn Kỳ, và cư ngụ tại Xóm Gà.[2]
Năm 1933, khi phong trào Thơ Mới đang nổi lên, thì "An Nam tạp chí" của Tản Đà chính thức đình bản sau 3 lần đình bản và 3 lần tái bản. Sự kiện này khi đó bị nhiều người thuộc phe "thơ mới" đem ra cười cợt, trong đó có Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, đã viết một bài "văn tế An Nam tạp chí" với lời lẽ xỏ lá. Thời kỳ đầu của phong trào thơ mới, Tản Đà im re. Mãi đến năm 1934, ông mới có một vài lời khuyên nhẹ nhàng gửi những nhà thơ Mới.
Tuy vậy, với vai trò là nhà thơ nổi tiếng nhất trong làng thơ cũ đương thời, Tản Đà vẫn là một đối tượng chính để những người dân thuộc phe thơ mới tìm cách đánh đổ. Tờ Phong hóa của Tự Lực văn đoàn rất nhiệt huyết chê ông, chê mọi thứ, từ tính nghiện rượu, nói nhiều lúc say, hay say, cho tới cái mũi ửng đỏ của Tản Đà cũng trở nên chê nốt.[cần dẫn nguồn]
Do ảnh hưởng của phong trào Thơ Mới và phong trào theo Tân học, Tản Đà, con người thuộc phe cựu học, làm thơ cũ đã từ từ trở nên cô độc. Tên tuổi ông gần như thể bị đẩy lui vào dĩ vãng, nhường chỗ cho những nhà thơ mới: Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... Cộng với việc "An Nam tạp chí" đình bản vĩnh viễn, môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường của Tản Đà vốn nghèo túng lại càng trở nên thiếu thốn hơn, phải chạy ngược chạy xuôi để kiếm sống. Có khi người ta thấy ông ở khu Bạch Mai dạy chữ Nho. Có lúc ở Hợp Đồng Hà Đông, đăng quảng cáo lên mấy tờ báo: "Nhận làm thuê những thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội - Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu". Năm 1938, ông còn mở cả một phòng đoán số Hà Lạc để xem bói.
Được tôn vinh và qua đời
Những năm cuối đời trải qua hắt hiu, buồn thảm như vậy, nhưng Tản Đà còn được an ủi là ông bỗng được mọi người quan tâm trở lại. Phe "thơ mới" sau thắng lợi, đã không hề đả kích Tản Đà. Họ khởi đầu lật lại những gì Tản Đà đã góp sức xưa nay, họ ca tụng Tản Đà, xem ông như một ông Thánh của làng thơ... Tờ Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, trước kia chê ông tới không hề chỗ chê, thì nay lại mời ông cộng tác, hết lời ca tụng những bài thơ Đường do ông dịch.
Lúc này sức khỏe của Tản Đà suy yếu, ông dành hết tâm sức cho việc dịch thuật và sửa đổi và biên tập: "Liêu Trai chí dị" của Bồ Tùng Linh (Tân Dân xuất bản, 1937), "Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện" (in năm 1940, sau khi ông mất), "Thời hiền thi tập", "Khổng Tử lược truyện" (đã thất lạc)...
Ngày 7 tháng 6 năm 1939 (tức 20 tháng 4 năm Kỷ Mão), ông mất (50 tuổi) sau thuở nào gian chống chọi với bệnh gan, trên cái giường nát tại nhà riêng số 71 Ngã tư Sở, huyện Hoàn Long, tỉnh Hợp Đồng Hà Đông (nay là quận Đống Đa, Tp Hà Nội Thủ Đô), để lại vợ và bảy đứa con. Di thể của ông được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện, Tp Hà Nội Thủ Đô.
Nghe tin Tản Đà mất, làng văn nghệ trong nước vừa yên ắng sau vụ "thơ mới - cũ" lại trở nên xôn xao. Một loạt những bài báo tưởng niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó: Khái Hưng có "Cái duyên của Tản Đà", "Vài chuyện vui về thi sĩ Tản Đà", Xuân Diệu có "Công của thi sĩ Tản Đà", ông Lâm Tuyền Khách có "Một tháng với Tản Đà: đời làm báo của Tản Đà", Lưu Trọng Lư có "Bây giờ, khi nắp quan tài đã đậy lại", Phan Khôi có "Tôi với Tản Đà thi sỹ", Nguyễn Tuân có "Tản Đà, một kiếm khách"..v..v. Những nội dung bài viết này thể hiện sự kính trọng, quý mến đối với con người Tản Đà, người mà cách đó vài năm còn bị họ đả kích, chế giễu.
Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân cho in tác phẩm "Thi nhân Việt Nam" nổi tiếng, đã cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế "chủ suý" của hội tao đàn, ở những trang đầu tiên, như một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước vào một quá trình tươi đẹp mới.
Năm 1963, di hài của Tản Đà đã được cải táng về cánh đồng Cửa Quán, thôn Hội Xá (quê vợ), xã Hương Sơn, tỉnh Hà Tây.
Con người của Tản Đà
Ngoài tài làm thơ, nhân cách của Tản Đà cũng rất được nhiều nhà nghiên cứu và phân tích. Khái Hưng, lúc đầu khi chưa hiểu thơ Tản Đà, cũng rất thích ông nhờ vào tính cách, hay là thi sĩ Bùi Giáng trong "Đi vào cõi thơ": chê thơ Tản Đà "không còn gì đặc sắc", song lại muốn Tản Đà sống lại để "nhậu một trận lu bù", và Trương Tửu ngay sau khi Tản Đà mất, cho ra một cuốn sách viết về Tản Đà là "Uống rượu với Tản Đà", trong đó kể lại nhiều câu truyện làm nổi lên những phẩm chất của ông, ông gọi Tản Đà là Epicurien của Việt Nam. Nguyễn Tuân, một người lập dị không kém và cũng rất khâm phục Tản Đà, trong bài "Tản đà - một kiếm khách" phác họa ra một người sống cô độc ngoài hải đảo, cách xa trần thế, tưởng như một vị trích tiên.
Bên cạnh đó cũng luôn có thể có nhiều người tỏ ý "kính nhi viễn chi", thậm chí không chịu nổi tính cách của Tản Đà. Vũ Bằng nói: "Người như Tản Đà để ở xa mà kính trọng cảm phục thì được, chứ ở gần thì không thể nào chịu nổi!". Lưu Trọng Lư nhận xét: "Gặp Tản Đà một bận thì thật là một điều khoái trá vô cùng, gặp ông ấy lần thứ hai thì vẫn còn là một một chiếc vui thích đã khởi đầu gượng gạo, và gặp đến lần thứ ba thì là một điều rất khó chịu. Và lần thứ tư, thứ năm, v.v... thì xin thú thực là một... tai nạn". Phan Khôi, được xem là khắc tinh với Tản Đà trên văn đàn, trong "Tôi với Tản Đà thi sỹ" viết: Cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà mất thì giờ lắm, tôi không chịu được, nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hỏa lò để ở bàn mà tự làm lấy món ăn, có khi mãn một tiệc ăn người nhà phải thay than trong hỏa lò đến năm sáu bận. Thường thường một mình ông vừa ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là thú..
Chính Tản Đà cũng thường tự coi mình là "Khổng tử chi đồ", "trích tiên", một thế ngoại cao nhân, tỏ ra khác lạ với người dương thế. Ông thường làm những chuyện xưa nay hiếm: theo lời Ngô Tất Tố, lần vào Sài Gòn viết báo, Tản Đà đem theo vợ con nhưng cả lúc đến lẫn lúc đi, vợ con ông gửi cho Ngô Tất Tố thu xếp cả. Ngô Tất Tố là bạn thân của Tản Đà, có lần phác họa về con người ông: "Không có tiền thì rầu rĩ, oán trách, rũ người ra như con cú, thế mà một khi có tiền thì lại không thích thao tác gì hết, chỉ uống và ăn, hết ăn lại uống. Chưa uống thì bảo không còn rượu như chiếc máy không xăng nhớt không chạy được, uống vào say rồi thì nằm khoèo ra ngủ và lý luận một mình rằng say mà thao tác thì hỏi đời còn tồn tại cái gì thú nữa?". Tản Đà còn tồn tại tính tự phụ, không biết sửa sai, lại thích nghe nịnh nọt, Ngô Tất Tố kể: "không biết nghe lời anh em khuyên bảo. Cái số anh em thành thực khuyên ông rất hiếm, còn cái số nâng ông lên, sợ cái tài ông mà không đủ can đảm làm mích lòng ông thì cả đống. Vì có nhiều kẻ nịnh ông một cách mù quáng như vậy, ông bị hại mà không biết, mỗi ngày mỗi tự phụ thêm lên...".
Đa phần những người dân thân trong gia đình với Tản Đà, thường nhận định rằng ông rất khó gần. Điển hình là Ngô Tất Tố, người bạn thân nhưng đã tuyệt giao với ông trong suốt 10 năm cuối đời.
"Thi sĩ tửu đồ" Chuyện tình cảmTrong cuộc sống của Tản Đà, người ta đếm được có bốn mối tình đã mang lại cho ông nhiều cảm xúc. Đầu tiên là mối tình tuyệt vọng với cô nàng họ Đỗ ở phố hàng Bồ. Đây là mối tình trong trắng và say đắm, nhưng không còn kết cuộc tốt đẹp. Mối tình này đã làm ông đau khổ và tạo nên nhiều thi hứng, để làm ra những câu thơ đặc sắc:
"Vì ai cho tớ phải lênh đênh Nặng lắm ai ơi, một gánh tình"Trong cuốn "Giấc mộng con", ông đã viết một bài văn để tả mối tình này. Ông mô tả: "ở phố Hàng Bồ số nhà hơn hai mươi về dãy bên lẻ có một người con gái ngồi bán hàng tạp hoá, không biết liệu có phải là tuyệt sắc hay là không mà tự con mắt mình khi bấy giờ thì như ngoài người ấy không còn ai là con gái...".
Tuy nhiên, do không còn tiền cưới hỏi mà chuyện thi cử lại bất thành, Tản Đà đành chấm hết cuộc tình thơ mộng. Cô gái xuất giá, Tản Đà viết: "Đời đáng chán hay là không đáng chán? Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm". Đây là chuyện tình đã gây ảnh hưởng nhiều nhất tới Tản Đà. Sau khi chia tay mối duyên đầu, ông trở nên chán nản, buồn bã. Để tìm khuây khoả, ông đi nhiều nơi: Việt Trì, Hòa Bình... Những câu thơ làm trong quá trình đau khổ này của Tản Đà đã vô tình mở đầu cho trào lưu văn học lãng mạn ở Việt Nam. Trước đó ít ai tả những nỗi buồn sâu kín, những nỗi chán đời rất trần tục như:
"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi! Trần thế em nay chán nửa rồi...""Trận gió thu phong rụng lá vàng Lá rơi hàng xóm, lá bay sang Vàng bay mấy lá năm già nửa Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?"Nhưng ngoài cô nàng hàng Bồ mà người ta thường nhắc tới ra, theo Nguyễn Khắc Xương, còn tồn tại ít nhất ba mối tình thực nữa mà Tản Đà đã ghi lại trong thơ. Đó là mối tình với cô con gái út ông tri phủ Vĩnh Tường, cô nữ sinh 13 tuổi ở Tỉnh Nam Định, và cả cô đào Liên, người sắm vai Tây Thi trong vở kịch "Cô Tô tàn phá" do ông soạn giả kiêm đạo diễn. Những người tình này đều được ghi lại trong tập văn xuôi "Giấc mộng con".
Trên là tình thực, còn tình "mộng", Tản Đà có rất nhiều. Đó là những mối tình với Tây Thi, với Chiêu Quân, với Ngọc Nữ... mà người ta thường thấy trong "Khối tình con". Đặc biệt, còn tồn tại những cuộc tình nửa thực, nửa mộng, với những "tình nhân lạ lẫm biết". Khoảng năm Nhâm Tuất (1922), vào hội chùa Hương, Tản Đà do không còn ngân sách để đi hội, ông nhớ hội chùa, nhớ rau sắng, làm ra mấy câu thơ:
Muốn ăn rau sắng chùa Hương Tiền đò ngại tốn, con phố ngại xa Mình đi, ta ở lại nhà Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm"Bài thơ phổ biến trên báo. Đến cuối thời điểm tháng, ông nhận một bưu kiện là một bó rau sắng và một bài thơ, nhưng không ghi địa chỉ người gửi. Ông cảm kích, gọi người gửi ấy là "Tình nhân lạ lẫm biết" và làm thơ gửi tặng bằng phương pháp đăng báo. Trước đó, ông đã viết nhiều bài thơ gửi "Tình nhân lạ lẫm biết", với ý muốn tìm kiếm một bạn tri âm tri kỷ trên khắp nước Việt Nam.
Xem những câu truyện trên, người ta tin Tản Đà không nói ngoa khi ông thường nhận mình là "giống đa tình". Những mối tình đa dạng đã chắp cánh cho thi tài của ông, khiến ông trở thành một nhà thơ mở màn cho trào lưu lãng mạn sau này (phong trào thơ mới), với những bài thơ ghi dấu sự chuyển giao giữa hai thời đại.
Từ thập niên 1920 cho tới nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không còn một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà. Kể cả khi phong trào thơ mới xảy ra, thì Tản Đà, sau khi "phái thơ mới" bị đả kích kịch liệt lại được chính những người dân đả kích mời về ngồi chiếu trên. Trong cuốn "Thi nhân Việt Nam", cuốn sách phản hồi thơ mới rất giá trị, Hoài Thanh và Hoài Chân đã đặt bài tưởng niệm Tản Đà lên những trang đầu, với lời lẽ tôn kính.
Thơ cũng là nghành quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú của Tản Đà. Ông được xem là một thi sĩ, hơn hết những nghề khác. Ông sáng tác rất nhiều thơ, nhiều thể loại - cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ ông hay diễn tả cảm hứng say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với người tri kỷ xa xôi, song cũng luôn có thể có những bài mang tính chất chất ẩn dụ, ngầm phê phán hiện thực.
Thơ Tản Đà thường tuân theo thể thơ cổ phong, cũng luôn có thể có khi làm bằng Đường luật, đường luật phá thể, lục bát, song thất lục bát. Ông còn tồn tại tài sáng tác thơ nhờ vào từ khúc, một hình thức âm nhạc của Trung Hoa, những bài "Tống biệt", "Cảm thu tiễn thu" nhờ việc phá cách, phối hợp nhiều thể loại thơ, hoàn toàn có thể xem là cải cách về hình thức khá táo bạo. Một kiểu văn vần đặc biệt nữa mà ở đó, Tản Đà được sánh ngang với Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát..., là hát nói hay ca trù (nay được xem như một thể loại thơ). Hát nói của Tản Đà thể hiện một triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế.
Ngoài thơ tự sáng tác, thơ dịch của Tản Đà cũng khá được đánh giá rất cao. Những bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường của Tản Đà thường được cho là hay hơn những bản dịch khác, có bài hay hơn hết nguyên tác, vì sự tự nhiên, không biến thành gò bó mà chuyển tải cả tâm hồn mình vào đó. Ngoài thơ Đường, ông còn dịch những bài thơ dài như Trường Hận ca, dịch ra thể Song thất lục bát, được đánh giá rất cao, Bùi Giáng trong cuốn "Đi vào cõi thơ" tuy không đề cao thơ Tản Đà nhưng gọi bản dịch này là "vô tiền khoáng hậu".
Hát nói Thơ ca dân gianVăn
Chủ yếu là thể loại văn xuôi. Ngoài ra, còn tồn tại tùy bút, bút ký,...
Đả kích trực diện vào bọn quan lại vô lương, đồng thời bảo vệ những người dân nghèo.
Báo chí
Làm báo chí là một phần trong sự nghiệp rất phong phú của Tản Đà. Ông có phong cách làm báo đặc biệt, thường xuất hiện trong những cuộc bút chiến với những giọng điệu khó lẫn. Từng là cộng tác viên cho "Nam Phong", sau đó do sự không tương đồng với Phạm Quỳnh mà sang làm chủ bút cho "Hữu Thanh". Về sau ông sáng lập ra "An Nam tạp chí" nhưng ba lần phải chịu cảnh đình bản vì nguyên do tài chính. Ở quá trình cuối đời còn cộng tác với "Văn học tạp chí" và cả "Ngày nay", tờ báo trước đó đã mạt sát ông nặng nề.
Có thể nói sự nghiệp báo chí của Tản Đà, cũng như cuộc sống của ông, thường gặp gian truân trắc trở. Song những đóng góp của ông trong thời buổi sơ khai của báo chí Việt Nam, là một chiếc giá trị mà người ta phải công nhận.
An Nam tạp chíXem rõ ràng hơn trong bài An Nam tạp chí
Tản Đà người sáng lập ra tờ báo chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam: tờ "An Nam tạp chí". Số đầu tiên ra ngày một tháng 7 năm 1926, Tản Đà làm chủ báo, thư ký tòa soạn là Ngô Tất Tố. Tờ báo xem như gắn sát với sự nghiệp làm báo của Tản Đà, song nó không hoạt động và sinh hoạt giải trí yên ổn như ý, cho tới ngày chính thức "chết", tờ báo đã trải qua ba lần đình bản.
"An Nam tạp chí" đình bản lần đầu tiên vào tháng 3 năm 1927, sau khi ra được 10 số. Sau đó, đến năm 1929, Tản Đà hợp tác với một người ở Hàng Gai, cho tái bản tạp chí. Theo ông Lâm Tuyền Khách, sự tái bản này là ý của người kia, ra tạp chí để có dịp thu nợ vì Tản Đà nợ ông một món rất khó trả. Trên bìa "An Nam tạp chí" lúc ấy ghi Tản Đà là "chủ sự", còn ông nọ là "gia chủ". Cũng theo ông Lâm Tuyền Khách, còn một nguyên do nữa là nếu ngày ấy An Nam tạp chí không tái bản thì sẽ bị thu giấy phép.
Lần tái bản này chỉ ra được vài số rồi lại đình bản. Đến tháng 4 năm 1931, "An Nam tạp chí" lại tái bản, lần này hoạt động và sinh hoạt giải trí đến ngày một tháng 3 năm 1933 thì đình bản vĩnh viễn vì nguyên do tài chính.
Tản Đà là cây bút nòng cốt của "An Nam tạp chí", cách làm báo của ông hoàn toàn có thể xem là khá đặc biệt. Theo Lâm Tuyền Khách, ban ngày ông không thao tác, chỉ uống rượu, nói chuyện hay đọc sách, đến hai - ba giờ đêm ông mới trở dậy thắp đèn viết cho tới sáng. Trong tờ báo nhiều khi độc giả thấy những nội dung bài viết đang liền mạch, tự nhiên bị bỏ dở trong thuở nào gian dài mới thấy Tản Đà xuất hiện viết tiếp.
Tờ "An Nam tạp chí" tuy tổng cộng chỉ có 48 số, lại hoạt động và sinh hoạt giải trí thất thường, thiếu chuyên nghiệp nhưng được xem là một trong những tờ đầu tiên có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn học Việt Nam thời cận đại theo khuynh hướng hiện thực. Bên cạnh đó nó thể hiện một cách kín kẽ lòng yêu nước của Tản Đà, qua những bài tiểu luận, bài thơ đăng rải rác.
Tranh luận văn họcKịch
Dịch thuật, nghiên cứu và phân tích
- Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái.
- Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc bản địa: trung đại và tân tiến.
- Ông có lối đi riêng vừa tìm về ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc bản địa vừa có những sáng tạo độc đáo tài hoa.
Ông lên trời, xưng danh với trời:
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn Quê ở Á châu về địa cầu Sông Đà núi Tản nước Nam ViệtKhi bước vào sân khấu cuộc sống ông luôn tự hào về quê hương
Văn chương thời nôm na Thú chơi có sơn hà Ba Vì ở trước mặt Hắc giang cạnh bên nhàSông Đà núi Tản đúc nên ai Trần thế xưa nay được mấy người Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc Thanh cao phô trắng một nhành maiLấy bút danh Tản Đà, ông hăm hở lập chí
Phận nam nhi tang bồng là chí Chữ trượng phu ý khí nhường ai Non sông thề với hai vai Quyết đem bút sắt mà mài lòng son.Nhưng tính ông lại ham chơi, nên ngòi bút cũng ngang tàng phóng khoáng
Trời sinh ra bác Tản Đà Quê hương thời có cửa nhà thời không Nửa đời năm, bắc, tây, đông Bạn bè sum họp vợ chồng Biệt ly Túi thơ đeo khắp ba kỳ Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...Cũng ngòi bút ngang tàng ấy, khi hỏng thi ở trường Tỉnh Nam Định ông tự trào
Vùng đất Sơn Tây này một ông, Tuổi chưa bao nhiêu văn rất hùng, Sông Đà núi Tản ai hun đúc, Bút thánh câu thần sớm vãi vung... Bởi ông hay quá ông không đỗ, Không đỗ ông càng tốt bộ ngông!Câu nói nổi tiếng
“ Người mà không biết chán đời có khác gì lợn? ”
— Đọc trong buổi nói chuyện "Đời đáng chán hay là không đáng chán", đáp lại những lời phê phán tập "Giấc mộng con" của Phạm Quỳnh
Thơ đục vào đá
Từ Đạm là tuần phủ Ninh Bình. Năm 1924, cho đục vào đá núi Non Nước, một bài thơ Nôm:
Trăng gió vui cùng hắn Lầm than bận kệ ai Ham chơi non với nước Có phúc được ngồi daiNăm sau Từ Đạm lại cho đục một bàn cờ và một bên đục hai lốt bàn chân của ông ta. Tản Đà thăm cảnh Dục Thúy Sơn, thấy những trò dởm của Từ Đạm, ông bực mình liền thuê thợ khắc đá, khắc bài thơ của tớ cạnh bài thơ Từ Đạm. Bài thơ như sau:
Năm ngoái năm xưa đục mấy vần Năm nay quan lại đục hai chân Khen cho đá cũng bền gan thật Đứng mãi cho quan đục mấy lầnNhận xét
“ Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ suý, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà? ”
— Nguyễn Tuân
“ Nếu tiên sinh còn sống, ắt tại hạ xin được phép cùng tiên sinh nhậu nhẹt một trận lu bù. Thơ của tiên sinh làm, chẳng có chi xuất sắc. Nhưng bản dịch "Trường hận ca" của tiên sinh quả thật là vô tiền khoáng hậu. ”
— Bùi Giáng
“ Chính cái sầu trong thơ Tản Đà là đầu mối quỷ thuật chính yếu để dụ người ta. ”
— Xuân Diệu
“ Trong cái trang thi sĩ của cuốn Việt Nam văn học sử sau này, dầu sao mặc lòng, ông Tản Đà là một người đứng đầu của thời đại này. ”
— Ngô Tất Tố
“ Người ta mong đợi một người hoàn toàn có thể tả được những nỗi chán ngán, những điều ước vọng của tớ, hoàn toàn có thể ru được mình trong giấc mộng triền miên - Thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu ra đời! ”
“ ...nhưng khi ông nói ông nhớ mà không biết nhớ ai, ông thương mà không biết thương ai, ông than mà không biết than về cái gì, thì ông là thơ sống, và thơ của ông là chất thơ trong như lọc với những cảnh tượng không rõ rệt, những hình ảnh lờ mờ, ông vẽ những bức tranh tuyệt bút; với những tư tưởng lâng lâng, với những cảm hứng mơ mộng, ông làm ra những câu thơ tuyệt mỹ... ”
— Lê Thanh
“ ...trước chúng tôi, không kèn không trống, lặng lặng im im, Tiên sinh cũng làm ra "thơ mới" đó thôi! ”
— Lưu Trọng Lư
“ Lamartine người ta thường gọi là "thơ sống", thì ông Tản Đà nay cũng hoàn toàn có thể gọi là "người thơ". ”
— Thiếu Sơn
“ Nhưng trong làng văn nước ta, được nhiều tình nhân mến thời còn sống, dễ mới có Tản Đà. ”
— Khái Hưng
“ Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa ”
— Hoài Thanh - Hoài Chân
“ Bỗng có khách vào. Ông Trác ra mắt cùng tôi: Đây ông Nguyễn Khắc Hiếu. Tôi như có điện chạy trong người, ghê rợn, vùng đứng dậy!...Thật thế. Cái tên Nguyễn Khắc Hiếu bấy giờ không phải vừa, đối với tôi lại càng trang trọng lắm. Tôi nghe mà rùng rợn lên, có thật thế. ”
— Phan Khôi
“ Tôi sợ ông như một ông tiên ”
— Vũ Bằng
“ Anh em ở đây, tuy người sau kẻ trước, nhưng ai nấy đều là con đầu lòng của thế kỷ hai mươi. Trên hội Tao đàn, chỉ tên sinh là người của hai thế kỷ. Tiên sinh sẽ đại biểu cho một lớp người để chứng giám việc làm lớp người sau đó. Ở địa vị ấy còn tồn tại ai xứng đáng hơn tiên sinh.. ”
— Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam.
“ Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam tân tiến. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm và mạnh mẽ và tự tin làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một chiếc tôi ”
— Xuân Diệu.
[3]
“ Ông Tản Đà là người thứ nhất và là người độc nhất của cái thế hệ ông đã làm sống lại cái hồn thơ Việt Nam đang hấp hối, tôi không thích nói đến đã chết rồi. Ông ra đời đem cho tất cả chúng ta một thi sĩ thành thực dám ca hát cái đời sống của lòng; ông đã mơ mộng, đã chán đời, yêu đời, thiết tha với đời một cách tự do, ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công nhiên để cho cái chữ tình mê man của tớ rãi trong văn thơ ”
— Lê Thanh.
[4]
- Khối tình con I (1916)
Khối tình con II (1916)
Tản Đà xuân sắc (1918)
Còn chơi (1921)
Thơ Tản Đà (1925)
Khối tình con III (1932)
- Thiên Thai (1916)
Người cá (1917)
- Giấc mộng con I (1917), tiểu thuyết
Khối Tình (1918, Đông Kinh ấn quán in), tản văn
Thần tiền (1919), truyện
Đàn bà Tàu (1919), tập truyện
Đài gương (1919), giáo khoa
Lên sáu (1920), giáo khoa
Lên tám (1920), giáo khoa
Tản Đà tùng văn (1922)
Truyện thế gian I (1922), tập truyện
Thề non nước (1922), truyện
Truyện thế gian II (1922), tập truyện
Trần ai tri kỷ (1924), truyện
Tản Đà nhàn tưởng (1929), bút ký triết học
Giấc mộng con II (1932), tiểu thuyết
Giấc mộng lớn (1932), tự truyện
Tản Đà văn tập (1932)
- Tây Thi (1922)
Tống biệt (1922)
- Quốc sử huấn mông (1924)
- Liêu Trai chí dị (1934)
- Vương Thúy Kiều chú giải (1938)
Một số bài báo...
- Uống rượu với Tản Đà của Trương Tửu (1939)
Tản Đà uống rượu làm tôi say đến bay giờ của Vũ Bằng (1970)
Người ghét Tản Đà của Vũ Bằng
^ Thơ Đường, Tản Đà dịch, Hội nghiên cứu và phân tích giảng dạy Văn Học thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ, 1989. ^ Sài Gòn vang bóng của Phan Thứ Lang, Saigon Books tái bản năm 2022, trang 166-168, ISBN 978-604-68-4633-8 ^ Báo Ngày nay, số 165, năm 1929 ^ Tuyển tập Tản Đà, Nhà xuất bản Văn học, 1996, trang 457
Nguyễn Khắc Xương (con trai trưởng của Tản Đà, sửa đổi và biên tập), Tuyển tập Tản Đà, Nhà xuất bản Văn học, Tp Hà Nội Thủ Đô 1996
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tản Đà.Wikisource có những tác phẩm gốc nói đến hoặc của:Tản Đà
- Tản Đà trên Từ điển bách khoa Việt Nam
Các tác phẩm thơ của Tản Đà