Kinh Nghiệm Hướng dẫn Các tác phẩm trung đại về lòng yêu nước Mới Nhất
Hoàng Tiến Dũng đang tìm kiếm từ khóa Các tác phẩm trung đại về lòng yêu nước được Cập Nhật vào lúc : 2022-09-17 10:36:32 . Với phương châm chia sẻ Kinh Nghiệm về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi tham khảo nội dung bài viết vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Admin lý giải và hướng dẫn lại nha.
I. Nội dung
1. Nội dung yêu nước trong văn quá trình từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX
- Nội dung yêu nước xuất hiện những biểu lộ mới như ý thức về vai trò của người trí thức đối với đất nước (Chiếu cầu hiền - Ngô Thì Nhậm), tư tưởng canh tân đất nước (Xin lập khoa luật - Nguyễn Trường Tộ), tìm hướng đi mới cho cuộc sống trong thực trạng xã hội bế tắc (Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Cao Bá Quát)...
- Những biểu lộ của nội dung yêu nước qua những tác phẩm và đoạn trích:
+ Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu: Lòng căm thù giặc, nỗi xót xa trước cảnh đất nước bị giặc tàn phá.
+ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu): Sự biết ơn những người dân đã hi sinh vì Tổ quốc.
+ Bài ca phong cảnh Hương Sơn (Chu Mạnh Trinh): Ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên đất nước.
+ Vịnh khoa thi hương (Trần Tế Xương): Lòng căm thù giặc.
2. Trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX
- Chủ nghĩa nhân đạo trong quá trình này trở thành một trào lưu vì xuất hiện hàng loạt những tác phẩm có mức giá trị như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương...
- Những nội dung thể hiện trong văn học quá trình này là sự việc thương cảm trước thảm kịch và đồng cảm với khát vọng của con người; xác định, đề cao tài năng, nhân phẩm, lên án những thế lực tàn bạo chà đạp con người; đề cao truyền thống đạo lí, nhân nghĩa của dân tộc bản địa.
- Cảm hứng nhân đạo trong quá trình này cũng luôn có thể có những biểu lộ mới, khuynh hướng về phía quyền sống của con người, nhất là con người trần thế (Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương); ý thức về thành viên đậm nét hơn, ý thức về quyền sống thành viên, niềm sung sướng thành viên, tài năng thành viên.... qua những tác phẩm như Tự tình (Hồ Xuân Hương), Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ).
- Dẫn chứng những tác giả, tác phẩm tiêu biểu:
+ Truyện Kiều (Nguyễn Du) đề cao vai trò của tình yêu, biểu lộ cao nhất của sự việc đề cao con người thành viên. Tình yêu không riêng gì có đem lại cho con người vẻ đẹp môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường, qua tác phẩm, nhà thơ muốn đặt ra và chống lại định mệnh.
+ Trong Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), con người thành viên được gắn sát với nỗi lo sợ tuổi trẻ, niềm sung sướng chóng phai tàn do trận chiến tranh.
+ Thơ Hồ Xuân Hương là con người thành viên bản năng khao khát sống, khao khát niềm sung sướng, tình yêu đích thực, bày tỏ thẳng thắn những ước mơ của người phụ nữ với đậm cá tính mạnh mẽ và tự tin.
+ Truyện Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) là con người thành viên nghĩa hiệp và hành vi theo nho giáo.
+ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) là con người thành viên công danh sự nghiệp, hưởng lạc ngoài khuôn khổ.
+ Thơ Tú Xương là nụ cười giải thoát thành viên và sự xác định mình.
3. Giá trị phản ánh và phê phán hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
- Vào phủ chúa Trịnh là bức tranh chân thực về môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường nơi phủ chúa, được khắc họa ở hai phương diện, môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường thâm nghiêm giàu sang, xa hoa và môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường ốm yếu, thiếu sinh khí của cha con nhà chúa.
- Trong mắt tác giả, Trịnh phủ thâm nghiêm và đầy uy quyền thế hiện ở những tiếng quát tháo, truyền lệnh, những tiếng dạ ran của kẻ hầu người hạ, ở những con người oai vệ và ở dáng vóc khúm núm, sợ sệt của người ngoài. Phủ chúa là một thế giới riêng biệt, phải qua rất nhiều cửa gác, mọi việc đều phải qua quan truyền lệnh, hướng dẫn. Thầy thuốc vào khám bệnh phải chờ, phải cúi lạy, phải nín thở...
Phủ chúa là nơi giàu sang, xa hoa từ nơi ở đến tiện nghi sinh hoạt, từ vật dụng đến đồ ăn thức uống. Cả vật và người đều phơi bày sự giàu sang, xa xỉ.
- Cuộc sống nơi Trịnh phủ rất thiếu sinh khí , đó cũng là nguyên nhân gây ra sự ốm yếu của thế tử Cán. Sự thâm nghiêm kiểu mê cung càng làm tăng âm khí nơi phủ chúa.
4. Giá trị nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu:
- Nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu là nội dung đề cao đạo lí nhân nghĩa qua Truyện Lục Vân Tiên và nội dung yêu nước qua Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Chạy Tây và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
- Đóng góp nổi bật nhất của Nguyễn Đình Chiểu về nghệ thuật và thẩm mỹ là tính chất đạo đức - trữ tình, sắc tố Nam Bộ qua ngôn từ, hình tượng nghệ thuật và thẩm mỹ.
- Trước Nguyễn Đình Chiểu, văn học dân tộc bản địa chưa tồn tại một hình tượng hoàn hảo nhất về người anh hùng nông dân nghĩa sĩ. Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, hình tượng người anh hùng nông dân nghĩa sĩ mang vẻ đẹp bi tráng (đau thương, hào hùng). Tiếng khóc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc đau thương mà lớn lao, cao cả.
II. Phương pháp
1. Hình thức ôn tập
- Tổng kết về tác giả, tác phẩm văn học quá trình trung đại.
- Thuyết trình.
- Thảo luận nhóm.
- Viết báo.
2. Nắm được đặc điểm của cục phận văn học từ đó tìm hiểu những tác phẩm rõ ràng
Văn học quá trình này mang những đặc điểm riêng về tư duy nghệ thuật và thẩm mỹ, quan niệm thẩm mĩ, bút pháp nghệ thuật và thẩm mỹ và thể loại văn học…
Page 2SureLRN
Trả lời (1)
Văn học là loại chảy không ngừng nghỉ của thời gian, những nhà văn nhà thơ là thư kí trung thành của thời đại. Ta phát hiện được những bản tuyên ngôn độc lập với giọng đọc hào sảng của Nước Việt Nam qua “Nam quốc sơn hà”hay một bài hịch vang núi sông ngỡ còn đâu đây trong “Hịch tướng sĩ” của Trần quốc Tuấn…và đó đó đó là những biểu lộ đẹp về trào lưu chủ nghĩa yêu nước tô đậm trong nền văn học trung đại.
Dân tộc Việt Nam trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, những chiến tích oanh liệt của những vua hùng, tướng sĩ được tạc trên sổ vàng của lịch sử. Văn học phản ánh chân thực và rõ nét qua những tác phẩm văn chương.
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, nước ta tồn tại dưới những triều đại phong kiến từ hưng thịnh đến suy vong. Văn học trung đại với nhiều nguồn cảm hứng rất khác nhau, trong đó yêu nước và nhân đạo là hai trong bốn nguồn cảm hứng chi phố ngòi bút của nhà thơ, nhà văn. Nhưng chủ nghĩa yêu nước tồn tại với những biểu lộ rõ nét, dưới nhiều cung bậc, màu vẻ rất khác nhau.
Yêu nước là niềm tự hào, tự tôn dân tộc bản địa, là lòng căm thù giặc sâu sắc với ý chí quyết tâm dẹp loạn, giành độc lập tự do; là lòng trung quân ái quốc; tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc; tố cáo tội ác của giặc; khát vọng hòa bình . Ngoài ra còn thể hiện ở nhiều cung bậc tâm trạng: buồn vui, sung sướng, hả hê, hay tủi nhục, hân hoan…
Có thể nói, trong những thế kỉ đầu, văn học viết về những chiến công can đảm và mạnh mẽ và tự tin, lấp lánh ánh hào quang của tinh thần yêu nước.
Mở đầu với “Bản tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của nước Đại việt với lòng tự hào, tự tôn dân tộc bản địa của Lý Thường Kiệt:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở Vằng vặc sách trời chia xứ sở Giặc giữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ”
Với giọng đọc hùng hồn, vang dội, bài thơ là lời xác định độc lập lãnh thổ dân tộc bản địa, không tên giặc ngoại xâm nào hoàn toàn có thể “xâm phạm” đến đây và lời tuyên ngôn rõ ràng, nhất quyết về tội ác của giặc sẽ phải chịu:
“Giặc giữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ”
Yêu nước còn là một tấm lòng trung quân ái quốc, luôn xưng đế:
“Như nước Đại việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Bình ngô đại cáo – Nguyễn trãi)
Nước đại việt với những phong tục, tập quán riêng, trải qua bao đời nay nó đã trở thành “nền văn hiến” không thể nào xóa bỏ.
Nhưng trong những triều đại phong kiens, nước ta luôn phải chống giặc ngoại xâm thì không thể nào không còn một trái tim hừng hực cháy bỏng về lòng căm thù giặc và một ý chí quyết tâm sắt đá đánh đuổi giặc như trong “ Hịch tướng sĩ” vang núi sông của Trần quốc Tuấn.
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức một nỗi chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng thấy cam lòng…”.
Đó là tâm trạng phẫn nộ tột cùng và một hào khí “sát thát” Đông A của thời Trần. Ông chán ghét lũ giặc đi nghênh ngang ngoài đường trên đất Nam, và coi đó như lũ cú, lũ hổ đói… và có lẽ rằng thế cho nên vì thế, bằng những động từ mạnh: xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu… đã lột tả hết được tâm trạng lên đến mức đỉnh cao của Trần quốc Tuấn. Lời thủ thỉ của tướng sĩ khiến bao an hem trong đội phải dấy lên những cảm xúc để họ một ngày nào đó sẽ “ nhà nhà giỏi như Nguyễn Huệ, …bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửu sông…”tất cả đều xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc.
Đến với “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, một áng “ thiên cổ hùng văn” như một bản ngôn dân quyền của nước đại Việt ta. Một lời tố cáo tội ác của giặc như khiến lòng độc giả cũng phải hòa tâm hồn vào thời ấy.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Lũ giặc gây bao tội ác như vậy, làm thế nào ta không căm tức, không thích diết giặc:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tất cả vì dân, “ vì nước quên thân, vì dân diệt bạo”.
Ta còn phát hiện một ông vua chúa Trịnh ăn chơi xa đọa, không chăm sóc cho môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường của người dân, bỏ bê việc triều chính. Không chỉ có vậy, mà đến những tầng lớp quan lại cũng là lũ “đầu trâu mặt ngựa” nửa đêm đi lùng tìm những cây quí của nhà dân rồi đổ tội oan cho dân, đẩy họ vào bước đường cùng không lối thoát.
Bên cạnh đó, tình yêu đất nước còn thể hiện ở khát vọng hòa bình của mọi người dân.
“Chương Dương cướp giáo giặc Hàm tử bắt quân thù Tỉnh Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu”
(Phò giá về kinh – Trần Quang Khải)
Đó là những chiến công hiển hách oanh liệt để làm ra thắng lợi thanh bình như ngày ngày hôm nay. Khát vọng hòa bình của người dân được đẩy thêm một nấc. Một lời tâm sự của Nguyễn Trãi mang bao khát vọng:
“Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch thù”
Từ đó thúc đẩy ý chí của mọi người để vươn lên tới hòa bình, niềm sung sướng, ấm no. Cảm xúc trước môi trường tự nhiên thiên nhiên sống đời thường thanh bình của người dân:
“Giặc tan muôn thủa thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao”
Vì non sông gấm vóc, nước Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả giành lại đất nước. Ngoài ra, chủ nghĩa yêu nước còn là một tình yêu thiên nhiên sâu đậm. Đọc thơ Nguyễn Trãi, thiên nhiên như ùa về trong ta với bao cảnh đẹp:
“Một mình nhàn nhã khép phòng văn Khách tục không còn ai bén mảng gần Trong tiếng quốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”
Thì ra Nguyễn Trãi khép phòng văn chứ ông không khép lòng mình, mà ông luôn mở rộng lòng mình đến với thiên nhiên tươi đẹp. Sắc tím của hoa xoan đã trở thành ấn tượng đối với thi nhân. Ông yêu thiên nhiên chính bới nó không còn cái nham hiểm của lòng người. Màn mưa bụi khép lại khiến lòng ta xao xuyến, nhớ mãi. Hay đến với thứ cỏ xanh non sau lượng mưa còn vương như những làn khói mờ mờ, hư thực:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi Lại có mưa xuân nước vỗ trời Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”
(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)
Không gian đưa đến với màu xanh của cỏ, white color của khói sớm, và hơn thế là sự việc tĩnh lặng của một miền quê xa vắng ngỡ còn đâu đây. Ta phát hiện tiết trời thu xanh ngắt cugnf ánh trăng mờ ảo huyền diệu trong “Thu vịnh” của Nguyễn Khuyến:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu”
Thu của làng cảnh Việt Nam thật mộc mạc, bình dị mà thân thuộc, thân mật. Bởi thế tôi càng yêu sao quê hương, đất nước mình hơn.
Con người Việt Nam đẹp như vậy, họ có tình yêu thương sâu sắc khiến ta thêm tự hào và trân trọng biết bao. Bởi vậy, chủ nghĩa yêu nước như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt đoạn đường dài rộng của nền văn học nước nhà. Các nghệ sĩ nối tiếp nhau viết về chủ nghĩa đó bằng cả niềm tin và tình yêu vô bờ đối với con người và tình quê chan chứa. Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn từng người bởi lẽ “với quá khứ, ta xây dựng được tương lai”. Càng đọc ta càng thấm thía trong từng trang viết về thuở nào đại vang danh núi sông bởi “ Mỗi con người là một bài thơ đẹp”.
Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu vấn đáp.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!
Lưu ý: Các trường hợp cố ý spam câu vấn đáp hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản
Gửi câu vấn đáp Hủy
Tải thêm tài liệu liên quan đến nội dung bài viết Các tác phẩm trung đại về lòng yêu nước