Mẹo về Tác giả bài sông núi nước nam là ai Mới Nhất
Cao Ngọc đang tìm kiếm từ khóa Tác giả bài sông núi nước nam là ai được Update vào lúc : 2022-06-07 08:48:04 . Với phương châm chia sẻ Kinh Nghiệm Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi Read nội dung bài viết vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại phản hồi ở cuối bài để Ad lý giải và hướng dẫn lại nha.
“Nam quốc sơn hà” là bài thơ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, và được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên xác định độc lập lãnh thổ của người Việt trên lãnh thổ của tớ. Tuy nhiên, với ít nhất là 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích, nguồn gốc của “Nam quốc sơn hà” vẫn còn là một một dấu hỏi…
Nội dung chính- Nam quốc sơn hà“Nam quốc sơn hà” có từ bao giờ?
“Nam quốc sơn hà” là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, chưa rõ nguồn gốc tác giả, nhưng được một số trong những tài liệu cho là tác phẩm của Lý Thường Kiệt. Theo đó, trong trận chiến chống lại quân Tống lần thứ hai (1075-1077), Lý Thường Kiệt đã sai người tâm phúc đọc vang bài thơ trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát thuộc địa phận sông Như Nguyệt, Yên Phong, Bắc Ninh, để khuyến khích tinh thần quân sĩ Đại Việt.
Nam quốc sơn hà
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” vốn không mang tên. Tựa đề của nó xuất hiện trong “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam” tập 2 (NXB Văn học, 1976), lấy từ bốn chữ đầu trong câu thơ đầu tiên của bài thơ. Bài thơ này còn có nhiều dị bản rất khác nhau, bản chữ Hán trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép:
南國山河南帝居, 截然分定在天書。 如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虚。
Phiên âm Hán Việt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Trước đây, sách giáo khoa từng sử dụng bản dịch của học giả Trần Trọng Kim, có âm điệu hào hùng và dễ nhớ:
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Sau này, sách giáo khoa không sử dụng bản dịch trên nữa, mà sử dụng bản dịch của Lê Thước và Nam Trân (Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, tập 1, 2015):
Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây,
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Tuy nhiên sách giáo khoa lại không dùng nguyên văn bản dịch này, mà sửa đoạn đầu “Núi sông Nam Việt vua Nam ở” thành “Sông núi nước Nam vua Nam ở”. Bản dịch mới này đã từng gây ra rất nhiều tranh luận vì không truyền tải được âm hưởng và khí phách của “Nam quốc sơn hà”.
“Nam quốc sơn hà” có từ bao giờ?
Trong Lĩnh Nam chích quái, phần “Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt” có ghi chép rằng:
Năm Thiên Phúc nguyên niên hiệu vua Lê Đại Hành, vua Tống Thái Tổ sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đem quân sang đánh Đại Cồ Việt. Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau ở sông Đồ Lỗ. Vua Lê Đại Hành nằm ngủ thấy hai vị Thần hiện về báo mộng. Hai vị Thần nói với vua, đại ý như sau: “Anh em thần tên là Trương Hống, Trương Hát, là tướng của Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục). Anh em thần vì nghĩa mà chết nên được phong làm tướng trong những thần linh, thống lĩnh quỷ binh. Nay quân Tống xâm phạm nước ta, anh em thần đến yết kiến, cùng giúp vua đánh giặc để cứu dân chúng.”
Vua Lê Đại Hành tỉnh dậy liền đốt hương khấn cầu thần giúp. Đêm ấy thấy một người dẫn đoàn âm binh áo trắng và một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía Bắc sông Như Nguyệt và lại cùng xông vào trại quân Tống mà đánh. Quân Tống kinh hoàng, thời điểm hiện nay bỗng có tiếng thơ ngâm lớn rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.
Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược,
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.
Dịch là:
Sông núi nước nam, vua nam ở,
Sách Trời định phận rõ non sông.
Cớ sao giặc bắc sang xâm phạm,
Bây hãy chờ gươm chém bại vong.
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau chạy tan, đại bại mà về. Vua Lê Đại Hành trở về ăn mừng, truy phong cho hai vị Thần nhân, một là Tinh Mẫn Đại Vương lập miếu thờ tại ngã ba sông Long Nhãn; hai là Khước Mẫn Đại vương, lập miếu ở ngã ba sông Nguyệt.
Trước Lý Thường Kiệt, vua Lê Đại Hành cũng nổi danh với trận chiến chống quân Tống lần thứ nhất cùng những chủ trương cứng rắn trước Tống và Chiêm. (Ảnh qua baonga.com)Vậy Trương Hống, Trương Hát là ai? Theo “Việt điện u linh” ghi chép lại thì anh em Trương Hống, Trương Hát là tướng của Triệu Việt Vương tức Triệu Quang Phục. Khi Triệu Việt Vương bị Lý Phật Tử cướp ngôi, dù được mời nhưng hai anh em không thích làm quan cho Lý Phật Tử, mà về ở ẩn ở núi Phù Long. Lý Phật Tử cho những người dân lùng bắt, hai anh uống thuộc độc, thà chết vẫn trung thành với Triệu Việt Vương.
Hai bộ sử khác nữa từ thế kỷ 16, 17 là “Việt sử diễn âm” và “Thiên nam ngữ lục” cũng nhận định rằng bài thơ trên có từ trận chiến chống quân Tống năm 981.
“Việt sử diễn âm” có ghi chép rằng:
Tháng bảy có Tống binh sang
Toàn những tướng mạnh binh cường ba muôn
Đến thành Phù Lỗ đóng vây
Quân ta quân nó đôi bên ngất trời
Chưa phân thắng phụ về ai
Ngày rằm tháng chạp vua nằm chiêm bao
Thấy đôi thần nhân bãi nào
Trương Hống Trương Hát bước vào quỳ thưa
Chúng tôi thần đế lòng xưa
Phụng thờ nhà chúa bấy chừ chẳng sai
Tiên Hoàng có sắc chỉ bày
Đòi về phong chức cho tôi tước quyền
Trung thần bất sự nhị quân
Chúng tôi tự vẫn làm thần đạo ngay
Thượng đế thấy bộ thương thay
Phong chúng tôi rày Quỉ bộ thần quân
Đại Hành thức dậy mừng thay
Giết trâu liền có minh tài tế khao
Đêm sau vua lại chiêm bao
Thấy mặc áo mới liền vào tạ ơn
Có một người đứng án tiền
Lĩnh được trăm áo vàn vàn quỷ binh
Lấy ra chưng đất Nam Bình
Đại Hành sực thức gẫm tình mới hay
Nửa đêm thấy một cơn mây
Bạo phong hắc ám gió bay vội vàng
Tống binh mất vía trở dường
Chúng quỷ đánh gãy đao thương liền cờ
Bỗng nghe mảng tiếng không hư
Thần nhân hiện xuống có thơ ngâm rằng
Thi vân:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ cảm xâm phạm
Hội kiến phong trần tận tảo trừ
Còn trong “Thiên nam ngữ lục” thì ghi chép rằng:
Bấy giờ binh mã sửa sang
Địch cùng Nhân Bảo là thằng giặc Ngô
Mười buôn binh mạnh thẳng đua
Qua miền Giang Bắc, đây là Phù Lan
Đêm thấy hai ngài đến màn
Xưng danh là Hát, xưng danh là Hồng
Giúp đời Triệu Việt có công
Thuở chẳng như lòng, ẩn nội Phù Lan…
Ơn trên Thượng đế xét thương
Quyền cho chúa tể giữ phương yên này.
Bây chừ bệ hạ đến đây
Nguyện ra giúp nước phá này giặc Ngô
Phán rằng: Tướng quan y như
Công nên thời lập miêú thờ trả ơn
Ngày sau Nhân Bảo ra quân
Trên không nghe tiếng người ngâm thơ rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Hội kiến phong trần tận khử trừ
Vậy việc nhận định rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ là xuất phát từ đâu? Trong nội dung bài viết “Lịch sử, sự thật và sử học” được đăng trong báo Tổ Quốc, số 401 tháng 1/1988, Giáo sư Hà Văn Tấn có viết: “Không có một nhà sử học nào hoàn toàn có thể chứng tỏ được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết thêm thêm điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho những người dân ngâm thơ. Đi xa hơn, hoàn toàn có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là ‘đoán’ thôi, làm thế nào nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt.”
Lý Thường Kiệt đã sử dụng “Nam quốc sơn hà” để khuyến khích tướng sĩ, nhưng có lẽ rằng ông không phải là tác giả của “Nam quốc sơn hà”. (Ảnh: Bìa sách Tranh truyện lịch sử Việt Nam – NXB Kim Đồng)Trong cuốn sách “Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn”, Hội sử học Tp Hà Nội Thủ Đô đã nhận định rằng, “Nam quốc sơn hà” ra đời vào thời Tiền Lê và được Lê Hoàn sử dụng trong trận chiến chống lại cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Tống năm 981.
Trong Tạp chí Hán Nôm, số 1-2002, nội dung bài viết “Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà” đã và đang xác định về thời gian, địa điểm ra đời của bài “Nam quốc sơn hà” thông qua việc phân tích 28 nguồn tư liệu rất khác nhau. Theo đó, “Nam quốc sơn hà” ra đời gắn sát với trận chiến chống Tống năm 981 và nhân vật lịch sử Lê Đại Hành (Lê Hoàn).
Bên cạnh đó, nội dung bài viết “Nam Quốc Sơn Hà và Quốc Tộ – Hai siêu phẩm văn chương chữ Hán ngang qua triều đại Lê Hoàn” đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5 năm 2005, Phó Giáo sư Bùi Duy Tân đã và đang xác định rằng bài thơ “Nam quốc sơn hà” có từ thời Tiền Lê.
Dù những dẫn chứng lịch sử đã cho tất cả chúng ta biết “Nam quốc sơn hà” được ra đời vào thới kỳ đánh Tống lần thứ nhất năm 981, nhưng lại không hề có dẫn chứng nào nói về tác giả của bài thơ trên.
Một số người nhận định rằng tác giả hoàn toàn có thể là thiền sư Đỗ Pháp Thuận bởi lẽ thời đó vua Lê Đại Hành rất tin tưởng những thiền sư như Pháp Thuận, Định Không, Vạn Hạnh, La Quý, Khuông Việt, Đa Bảo. Rất nhiều chinh sách đối nội, cũng như kế hoạch đánh Tống, Chiêm Thành, vua Lê Đại Hành đều hỏi qua những thiền sư trước rồi mới tiến hành làm. Kết quả đều rất tốt. Vua Lê cũng muốn dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, giúp dân chúng thăng hoa đạo đức, ổn định xã hội, giang sơn bền vững và cường thịnh.
Thời đó, vua Lê Đại Hành đã có rất nhiều sách lược cứng rắn, nổi tiếng phải kể tới màn tiếp đãi khiến sứ giả nhà Tống run sợ. Xem bài “Vị vua Việt dám tiến đánh Trung Quốc, không biến thành trách mà còn được tặng đai ngọc”.Trong số đó thiền sư Pháp Thuận là người “vận trù kế sách” ngay từ lúc vua Lê Đại Hành sáng nghiệp. Hơn nữa nhiều văn thư quan trọng thời ấy đều do thiền sư Pháp Thuận soạn thảo. Ông cũng là tác giả ra nhiều thơ ca. Chính vì thế mà một số trong những người dân nhận định rằng hoàn toàn có thể chính thiền sư Pháp Thuận là tác giả bài thơ này. Tuy nhiên đây cũng mới chỉ là suy đoán.
Trần Hưng
Xem thêm: Lý Thường Kiệt: Từ hoạn quan đến vị tướng tài lừng danh sử Việt
Mời xem video: