Mẹo về Quốc tế Cộng sản Quốc tế 3 được thành lập vào thời gian nào Chi Tiết
Bùi Ngọc Chi đang tìm kiếm từ khóa Quốc tế Cộng sản Quốc tế 3 được thành lập vào thời gian nào được Cập Nhật vào lúc : 2022-11-21 23:14:04 . Với phương châm chia sẻ Bí kíp Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi Read nội dung bài viết vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comments ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.Quốc tế Cộng sản - tổ chức quốc tế của giai cấp vô sản - được thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1919 tại Mát-xcơ-va (Liên Xô). Theo V.I.Lênin: “Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Quốc tế Cộng sản, là ở chỗ nó đã khởi đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của C.Mác, khẩu hiệu tổng kết thực tiễn trong một thế kỷ của chủ nghĩa xã hội và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu lộ bằng khái niệm: chuyên chính của giai cấp vô sản”(1). Đối với cách mạng An Nam (Việt Nam), Quốc tế Cộng sản có ảnh hưởng và đóng góp vô cùng quan trọng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã xác định: “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam Quốc tế"(2). Người đã luận bàn về vai trò to lớn đó của Quốc tế Cộng sản với cách mạng An Nam trên những phương diện sau:
Một là, Quốc tế Cộng sản đã vạch ra con phố giải phóng dân tộc bản địa đúng đắn cho cách mạng An Nam
Trong quá trình dạt dẹo tìm đường cứu nước, bằng trí tuệ uyên bác và sự nhạy cảm chính trị, Hồ Chí Minh đã lựa chọn Quốc tế cộng sản và tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Quốc tế Cộng sản bởi trên hết, Người tìm thấy tiềm năng mà mình theo đuổi trong đường lối của tổ chức cộng sản này. Đó là những quan điểm đúng đắn về vấn đề dân tộc bản địa và thuộc địa. Đây là ngọn cờ lý luận và tiềm năng cho cách mạng Việt Nam.
Những năm thời điểm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một loạt phong trào yêu nước của nhân dân ta đã nổi lên mạnh mẽ và tự tin, liên tục chống đế quốc và phong kiến, song đều không giành được thắng lợi. Cách mạng Việt Nam đang lâm vào cảnh khủng hoảng rủi ro cục bộ trầm trọng. Trước toàn cảnh đó, sau trong năm dạt dẹo tìm đường cứu nước, tháng 7 năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đã đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc bản địa và thuộc địa của VI.Lênin được thông qua tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản. Luận cương đã trình bày một cách ngắn gọn những nguyên tắc đối với việc xử lý và xử lý vấn đề dân tộc bản địa và vấn đề thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Trong số đó, điểm 4 của Luận cương nhấn mạnh vấn đề “…trọng tâm trong toàn bộ chủ trương của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc bản địa và vấn đề thuộc địa là nên phải đưa giai cấp vô sản và quần chúng lao động tất cả những dân tộc bản địa và những nước lại gần nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng chung để lật đổ địa chủ và tư sản(3). Từ đó, Người nhận thấy “Đệ tam quốc tế chủ trương đập đổ tư bản làm thế giới cách mệnh” và “giúp dân thuộc địa chống lại đế quốc chủ nghĩa”. Đây là vấn đề khác lạ lớn số 1 giữa Quốc tế Cộng sản với những tổ chức cộng sản khác đã được Người trình bày rõ trong cuốn Đường Cách mệnh. Có thể nói Luận cương đã đáp ứng và phù hợp những suy nghĩ, những tìm kiếm lâu nay nay của Nguyễn Ái Quốc. Bằng việc tiếp cận với Luận cương về vấn đề dân tộc bản địa và vấn đề thuộc địa của Lênin và đi theo con phố cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con phố cứu nước cho dân tộc bản địa Việt Nam, xử lý và xử lý cuộc khủng hoảng rủi ro cục bộ về đường lối, đưa cách mạng Việt Nam bước sang một trang mới. Sau này nhớ lại thời điểm được đọc bản luận cương của V.I.Lênin, Người đã viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái thiết yếu cho tất cả chúng ta, đây là con phố giải phóng tất cả chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”(4).
Sau đó, đường lối dân tộc bản địa và thuộc địa tiếp tục được Quốc tế Cộng sản điều chỉnh, tương hỗ update, hoàn thiện trong suốt quá trình hoạt động và sinh hoạt giải trí của tớ cho phù phù phù hợp với điều kiện những nước thuộc địa. Đặc biệt, với khẩu hiệu “Vô sản tất cả những nuớc và những dân tộc bản địa bị áp bức, đoàn kết lại!”(5) đã cho tất cả chúng ta biết V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản đã nhìn nhận vấn đề dân tộc bản địa và thuộc địa là việc link chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hôi khoa học không riêng gì có với giai cấp công nhân mà còn đối với những dân tộc bản địa thuộc địa và phụ thuộc và đã tạo nên dòng thác cách mạng thống nhất trong phong trào công sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc bản địa.
Đại hội VI Quốc tế Cộng sản thông qua Đề cương “Phong trào cách mạng ở những nước thuộc địa và nửa thuộc địa” đã vạch rõ tính chất, trách nhiệm cách mạng những nước phương Đông trong quá trình đầu phải là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới với những trách nhiệm cơ bản là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc bản địa, lật đổ cơ quan ban ngành sở tại phản động trong nước, thực hiên cải cách ruộng đất, tạo mọi điều kiên vững chắc từng bước đưa cách mạng tiến lên chủ nghĩa xã hội, không phải trải qua quá trình tư bản chủ nghĩa. Về lực lượng lãnh đạo cách mạng ở những nước thuộc địa, Quốc tế Cộng sản chủ trương giai cấp vô sản những nước thuộc địa phải nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc bản địa, phải có sách lược đoàn kết và hợp tác với những lực lượng dân tộc bản địa - cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc rồi tiến lên làm cách social chủ nghĩa thông qua đội tiền phong của nó là đảng cộng sản.
Như vậy, “Đệ tam quốc tế dạy cho vô sản giai cấp trong thế giới - bất kỳ nòi giống nào, nghề nghiệp gì, tôn giáo gì - hợp sức làm cách mệnh”(6). Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, Quốc tế Cộng sản thực sự muốn giúp sức những dân tộc bản địa bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do. Từ đó, Người nhận thức được là trong thời đại ngày này, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc bản địa tất phải đi theo con phố của V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản đã vạch ra là con phố cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc xem đó là con phố đúng đắn nhất, triệt để nhất như sau này Người viết trong tác phẩm Đường Cách mệnh: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc như đinh nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(7).
Nguyễn Ái Quốc tìm đến được chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con phố cứu nước dưới ánh sáng đường lối của Quốc tế Cộng sản và hoàn toàn đi theo con phố của Quốc tế Cộng sản đã đánh dấu bước ngoặt trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, lịch sử cách mạng Việt Nam được chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, mà Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam đầu tiên tiếp nhận, đã coi như mặt trời chói lọi, soi sáng con phố đi tới thắng lợi ở đầu cuối là độc lập dân tộc bản địa, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây được xem là một trong những góp sức lịch sử của Quốc tế Cộng sản và có ảnh hưởng trực tiếp tới cách mạng Việt Nam.
Hai là, Quốc tế Cộng sản đã tích cực giúp sức, sẵn sàng sẵn sàng những điều kiện và chỉ huy thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Quốc tế Cộng sản luôn quan tâm đến việc xây dựng chính Đảng vô sản ở những nước thuộc địa nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Quốc tế Cộng sản đã có rất nhiều hoạt động và sinh hoạt giải trí tích cực sẵn sàng sẵn sàng những điều kiện tiền đề cho việc ra đời Đảng cộng sản Việt Nam. Trước hết là công tác thao tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế III vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Để truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam Quốc tế Cộng sản đã thành lập những trung tâm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào những nước phương Đông như Mátxcơva, Tasken - Bacu, Iếccút - Quảng Châu Trung Quốc. Đồng thời, thông tư cho những đảng cộng sản tích cực in và gửi sang Việt Nam hàng nghìn bản in những tác phẩm của những nhà tầm cỡ chủ nghĩa Mác - Lênin, trong số đó có Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen; những tác phẩm của V.I.Lênin…
Sau Đại hội VI những luận cương và nghị quyết của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản (1928) và những văn kiện khác của Quốc tế Cộng sản đã được bí mật chuyển từ Pháp đến những cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu năm 1929. Nhờ sự giúp sức tích cực của Đảng Cộng sản Pháp và những đảng anh em khác dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản mà nhiều sách báo mácxít được in và chuyển về Việt Nam. Nhờ đó, người Việt Nam đã nghe biết chủ nghĩa Mác - Lênin, và thấm sâu vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước của dân tộc bản địa Việt Nam, thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng phát triển mạnh mẽ và tự tin, chuyển từ tự phát sang tự giác. Đó là sự việc sẵn sàng sẵn sàng chu đáo về lý luận cách mạng, trực tiếp góp thêm phần vào hình thành những tổ chức cộng sản ở Việt Nam và là tiền đề để sẵn sàng sẵn sàng tốt cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bên cạnh đó, Quốc tế Cộng sản đã tích cực đào tạo những nhà hoạt động và sinh hoạt giải trí chính trị, những chiến sỹ cách mạng cho Việt Nam thông qua những trường của Quốc tế Công sản như Trường Đại học phương Đông, Viện nghiên cứu và phân tích những vấn đề dân tộc bản địa và thuộc địa và Trường quốc tế Lênin. Đánh giá về vai trò to lớn đó, Nguyễn Ái Quốc đã xác định: “Có thể nói không ngoa rằng Trường Đại học phương Đông ôm ấp dưới mái trường mình tất cả tương lai của những dân tộc bản địa thuộc địa”(8). Sau khi tham gia học xong, Quốc tế Cộng sản tổ chức cho những sinh viên lần lượt về nước hoạt động và sinh hoạt giải trí. Với sự giúp sức, chỉ huy sát sao, kịp thời của Quốc tế Cộng sản và những đảng anh em, sự hoạt động và sinh hoạt giải trí không mệt mỏi của Nguyễn Ái Quốc và những người dân cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được truyền bá vào Việt Nam dẫn đến bước nhảy vọt về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đến thời điểm hiện nay, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không hề đủ kĩ năng và uy tín để lãnh đạo phong trào cách mạng đang lên rất cao nữa. Tình hình đòi hỏi phải có một đảng cách mạng vô sản mạnh mẽ và tự tin và thống nhất trong toàn nước, có kỷ luật nghiêm minh và giương cao ngọn cờ cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập. Vì vậy, đến đầu năm 1929, ở Việt Nam khởi đầu có cuộc đấu tranh Một trong những nhóm cộng sản để tiến tới thành lập một đảng cộng sản thống nhất. Trong thuở nào gian ngắn, từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, ở Việt Nam xuất hiện ba tổ chức cộng sản (Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn). Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động và sinh hoạt giải trí những tổ chức này đả kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng. Theo dõi sát sao tình hình, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đề ra trách nhiệm cấp bách là phải nhanh gọn xúc tiến việc thành lập một đảng cộng sản ở Việt Nam: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người dân cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản…Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương"(9).. Ngay sau đó, Quốc tế Cộng sản đã gửi những người dân cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương. Trong bản tài liệu đó, Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản và giải pháp xây dựng đảng Mác - Lênin và hướng dẫn cách tiến hành hợp nhất những phần tử cộng sản thành một đảng thống nhất. Thực hiện trách nhiệm trên, với tư cách là người đại diện của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị thành lập Đảng tại Cửu Long, Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị đã nhất trí tán thành hợp nhất những nhóm cộng sản thành đảng cộng sản thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng, đã chấm hết thời kỳ khủng hoảng rủi ro cục bộ về vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đó không riêng gì có là công lao vô cùng to lớn của Nguyễn Ái Quốc mà còn là một sự giúp sức tận tình, sự chỉ huy ngặt nghèo và kịp thời của Quốc tế Cộng sản trong việc sẵn sàng sẵn sàng mọi điều kiện và thành lập Đảng ta. Vì vậy, trong tác phẩm Đường Cách mệnh Nguyễn Ái Quốc đã xác định: “Đệ tam quốc tế là một Đảng Cộng sản thế giới. Các đảng những nước là như chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa tồn tại mệnh lịnh và kế hoạch Đệ tam quốc tế thì những đảng không được làm”(10). Đây được xem là một một đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam.
Ba là, Quốc tế Cộng sản chỉ huy kịp thời và giúp sức phong trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Trong thời gian tồn tại (1919 - 1943) Quốc tế Cộng sản luôn coi trọng, giúp sức cách mạng thuộc địa đặc biệt là ở phương Đông. Nhấn mạnh về vai trò to lớn đó, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Xem trong cách tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một bộ riêng, chuyên nghiên cứu và phân tích và giúp sức cho cách mệnh bên Á - Đông”(11). Đối với cách mạng Việt Nam, Quốc tế Cộng sản đã giúp sức, chỉ huy kịp thời về đường lối lãnh đạo cho Đảng cộng sản Việt Nam trong từng quá trình cách mạng. Ngay sau khi ra đời, Ðảng đã lãnh đạo những tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh, tạo nên cao trào cách mạng rộng lớn trong trong năm 1930 - 1931 làm rung chuyển chính sách thống trị của thực dân Pháp và tay sai. Trong điều kiện vừa mới ra đời, Đảng không tránh khỏi mắc phải một số trong những sai lầm “tả” khuynh và hữu khuynh; thời cơ giành cơ quan ban ngành sở tại chưa xuất hiện cho nên vì thế bị thực dân Pháp đàn áp và dìm các phong trào đấu tranh trong biển máu. Từ cuối năm 1931, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ khó khăn nhất. Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản và những tổ chức quần chúng của Quốc tế Cộng sản đã theo dõi sát sao, liên tục gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương, biểu dương tinh thần đấu tranh can đảm và mạnh mẽ và tự tin của nhân dân, thường xuyên chỉ huy, uốn nắn kịp thời những vấn đề về kế hoạch, sách lược, đồng thời, phê bình những hạn chế, thiếu sót, những biểu lộ “tả” khuynh cần khắc phục, hướng dẫn những kinh nghiệm tay nghề, phương pháp đấu tranh. Đồng thời, Quốc tế Cộng sản còn phát động trong công nhân và nhân dân lao động thế giới một phong trào ủng hộ cách mạng Đông Dương, chống khủng bố trắng, đòi ân xá tù chính trị, đồng thời, thông tư cho những phân bộ đẩy mạnh những hoạt động và sinh hoạt giải trí thiết thực để giúp sức Đảng Cộng sản Đông Dương. Được sự giúp sức trực tiếp của Ban Phương Đông, tháng 6-1932, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thông qua Chương trình hành vi-bản Cương lĩnh hành vi của Đảng trong thực trạng tạm thời thoái trào nhằm mục đích xác định lại những trách nhiệm cơ bản trong Luận cương Chính trị tháng 10-1930, đồng thời, đề ra những trách nhiệm rõ ràng trong tình hình mới. Bản Chương trình ra đời đã kịp thời củng cố lại phong trào, động viên toàn Đảng và những tổ chức quần chúng tiếp tục tiến lên thực hiện những trách nhiệm cách mạng. Để kiện toàn ban lãnh đạo của Đảng, thực hiện quyết định của Quốc tế cộng sản, tháng 3-1934, Ban Chỉ huy ở ngoài được thành lập, do Lê Hồng Phong đứng đầu. Ban có trách nhiệm liên lạc giữa Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế cộng sản và những đảng cộng sản; tập hợp và đào tạo cán bộ; xuất bản Tạp chí Bônsơvích, cơ quan lý luận của Trung ương Đảng. Trong thực tế, Ban Chỉ huy ở ngoài làm trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và hoạt động và sinh hoạt giải trí dưới sự chỉ huy trực tiếp của Quốc tế cộng sản. Như vậy, nhờ việc chỉ đạo và nỗ lực giúp đỡ theo nhiều hướng với nhiều hình thức phong phú, và sự giúp đỡ của các đảng cộng sản - các phân bộ của Quốc tế Cộng sản đến thời điểm ở thời điểm cuối năm 1934 cách mạng Việt Nam vượt qua được trong năm tháng trở ngại vất vả nhất.
Bước vào quá trình cách mạng 1936 -1939, Quốc tế Cộng sản có sự chuyển hướng chỉ huy mới đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Sau Đại hội VII, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản thông tư cho Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng ta cần chuyển ngay về trong nước để cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng. Đồng thời, nhấn mạnh vấn đề Đảng ta nên phải quay quồng thành lập mặt trận dân tộc bản địa thống nhất chống phát xít và trận chiến tranh. Vận dụng tinh thần Nghị quyết Đại hôi VII Quốc tế Cộng sản, địa thế căn cứ vào tình hình rõ ràng của cách mạng trong nước và trên thế giới, Đảng cộng sản Việt Nam đã định ra trách nhiệm kế hoạch, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong thời kỳ mới. Với sự chuyển hướng, chỉ huy kế hoạch và sách lược mới đó đã đưa cách mạng Việt Nam tiến lên một cao trào mới - cao trào cách mạng 1936 - 1939. Từ năm 1939 trở đi, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến, những người dân cộng sản Việt Nam được trang bị bằng những nghị quyết của Quốc tế Cộng sản đã kịp thời chuyển hướng kế hoạch, đặt trách nhiệm giải phóng dân tộc bản địa lên trên hết, sẵn sàng sẵn sàng về mọi mặt, chớp thời cơ, lãnh đạo toàn dân tộc bản địa tổng khởi nghĩa làm ra thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc bản địa Việt Nam.
Với cách viết súc tích, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, tác phẩm Đường Cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh giúp ta hiểu một cách sâu sắc, toàn diện vị trí, vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam trong những quá trình trở ngại vất vả nhất. Những nội dung thể hiện trong tác phẩm có mức giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc tuyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, trong việc phối hợp phong trào yêu nước với chủ nghĩa Mác, tạo lập những tiền đề tư tưởng, lý luận cho việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; từ đó tạo nên những bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Thời gian đã lùi xa nhưng những giá trị cốt lõi kết tinh trong Đường Cách mệnh vẫn còn nguyên vẹn, sẽ tiếp tục được những thế hệ ngày hôm nay và tương lai thừa kế và phát triển.
Theo https://www.tuyengiao/nghien-cuu/ly-luan/nguyen-ai-quoc-ban-ve-vai-tro-quoc-te-cong-san-voi-cach-mang-an-nam-trong-tac-pham-duong-cach-menh-138948
Tải thêm tài liệu liên quan đến nội dung bài viết Quốc tế Cộng sản Quốc tế 3 được thành lập vào thời gian nào